09:49 26/05/2009

Quản lý lao động nước ngoài: Sẽ kiểm tra thống kê

Thúy Quỳnh

Người đứng đầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nói về vấn đề quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam

Bộ trưởng Kim Ngân trao đổi với báo chí - Ảnh: P.Thảo.
Bộ trưởng Kim Ngân trao đổi với báo chí - Ảnh: P.Thảo.
Bên hành lang Quốc hội, người đứng đầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bà Nguyễn Thị Kim Ngân khá cởi mở khi trao đổi xung quanh vấn đề quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam.

Thưa bà, một trong những vấn đề mà nhiều đại biểu quan tâm hiện nay  là lao động nước ngoài, Chính phủ cần có đánh giá cụ thể, toàn diện. Quan điểm của bà, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực lao động, việc làm?

Việc đánh giá này Chính phủ đã chỉ đạo rồi. Tình trạng lao động nước ngoài có mặt tại Việt Nam là điều có thực. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành, nhất là các địa phương phải nắm tình hình rất cụ thể và báo cáo Chính phủ.

Để nói chính xác hiện có mấy ngàn lao động phổ thông nước ngoài tại Việt Nam thì phải đợi để kiểm tra thống kê lao động giữa các địa phương. Chúng tôi đang tiếp tục theo dõi. Nhưng rõ ràng những người này sang Việt Nam lao động trước hết là bằng con đường đi du lịch, chứ chưa ai cấp phép cho họ sang Việt Nam lao động.

Họ đi để làm việc ở những dự án do nhà thầu nước ngoài trúng thầu tại Việt Nam. Đó là thực tế. Vấn đề bây giờ là ở chỗ, quản số lao động này như thế nào.

Tôi cho rằng, hiện địa phương, các bộ ngành quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan nhà nước quản lý về lao động, chính quyền địa phương và những đơn vị, doanh nghiệp có công trình do nhà thầu nước ngoài trúng thầu phải hiệp đồng để nắm được con số cụ thể như thế nào, trong số đó có bao nhiêu thuộc diện phải xin phép để quản lý theo đúng luật Việt Nam.

Trong thời điểm hội nhập thì chúng ta không thể nói là khép cửa, tránh không cho bất cứ người nào vào làm việc tại Việt Nam. Tuy nhiên, người nào vào Việt Nam làm việc phải theo đúng pháp luật của Việt Nam quy định. 

Ví dụ như ở trình độ nào, công trình này thì cần cỡ kỹ sư hay công nhân tay nghề trở lên mới được nhận, nếu lao động nước ngoài đạt được trình độ đó thì vẫn được nhận vào làm. Còn nếu chỉ làm việc trên 3 tháng là phải xin phép và xin phép ở đâu làm ở đó.

Nói chung, các quy định của chúng ta cũng khá chặt chẽ, nhưng khi đi vào tổ chức thực hiện thì việc nắm tình hình lại không kịp thời.

Như vậy có nghĩa là đã có một giai đoạn chúng ta buông lỏng quản lý lao động nước ngoài?
 
Cũng không phải như vậy. Đúng là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có chức năng quản lý lao động ngoài nước nhưng Bộ không cấp phép cho ai vào đây cả, việc này phải là cơ quan xuất nhập cảnh.

Khi người ta vào với mục đích gì đều được ghi lại, như đi du lịch, thăm thân… Nhưng khi vào rồi thì người ta lại đi làm việc cụ thể ở những công trình, đến chừng đó, chủ đầu tư phải lập tức thống kê báo cáo cho chính quyền địa phương biết là có sử dụng bao nhiêu người và báo cáo cho cơ quan lao động địa phương biết ngay, để kiểm tra và cấp giấy phép lao động.

Pháp luật của chúng ta rất đầy đủ nhưng trong lúc thực hiện, có nơi này nơi nọ, công trình này công trình nọ cũng như người lao động chưa tuân thủ hết quy định.

Như vậy, bà cho rằng trách nhiệm thuộc chủ sử dụng lao động chứ không phải cơ quan quản lý nhà nước?

Trách nhiệm là thuộc về các cơ quan có trách nhiệm quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương. Còn đối với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội người ta nói trách nhiệm là không sai nhưng rõ ràng khi phân tích ra thì trách nhiệm của từng cơ quan ở mức độ nào thì phải được đặt ra một cách rất khách quan, thì mới có thể tìm ra chỗ nào sai và đang cần phải sửa chỗ nào. Còn nếu nói chung chung không bao giờ làm được.

Nếu tôi nhận trách nhiệm đó là của tôi thì tôi sẽ không bao giờ sửa được, vì thực tế tôi không cấp phép cho ai vào đây và người lao động vào cũng không phải đăng ký với tôi. Thành ra nếu đã nhận thì phải nhận cho hết, cho đủ trách nhiệm và đã nói nhà nước nhận trách nhiệm về quản lý lao động thì phải rõ nhà nước là ai, ở trung ương là bộ nào, cấp cơ quan nào, ở địa phương là cấp chính quyền nào.

Thưa bà, nhiều người bức xúc trong lúc tình hình suy thoái, khủng hoảng thế này, lao động trong nước thì mất việc làm trong khi lao động nước ngoài lại tràn lan ở các công trình?

Nếu nói thế này thì cũng phải thấy chúng ta cũng đang đưa người Việt Nam ra nước ngoài làm việc.

Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, không thể nói chúng tôi chỉ đưa người Việt Nam ra nước ngoài mà không cho ai vào Việt Nam làm việc được. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta đưa đi cũng phải đúng pháp luật và người khác vào đất chúng ta cũng phải đúng pháp luật, chứ làm sao nói đóng cửa, không cho ai vào hết được.

Hiện nay, chúng ta cho phép lao động nước ngoài vào làm việc, nhưng những công trình chỉ dùng lao động thủ công thì không cần. Ta chỉ mời công nhân kĩ thuật, chuyên gia vào và  vào rồi thì anh phải đăng kí theo đúng quy định của pháp luật và được cấp phép lao động ở Việt Nam. 

Vậy để quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam thật hiệu quả, theo bà cần phải  sửa phần nào?

Tôi cho rằng trước hết là phải rà soát lại pháp luật. Đặc biệt là quy định lao động vào dưới 3 tháng, 4 tháng hay 6 tháng như thế nào thì phải xin phép và xin phép rồi thì thực hiện ra sao. Thứ hai là trách nhiệm quản lý trên địa bàn của các địa phương.