
Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025
Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".
Thứ Năm, 02/10/2025
Đỗ Phong
02/10/2025, 23:14
Dựa trên tính toán, đánh giá tác động của các xu hướng truyền thống lên tốc độ tăng trưởng, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, nêu rõ: việc duy trì mô hình tăng trưởng trên cơ sở xu hướng, cách thức khai thác các động lực tăng trưởng truyền thống sẽ trở thành một thách thức lớn với mục tiêu tăng trưởng nếu không có thay đổi liên quan đến mô hình tăng trưởng...
Do đó, cùng với việc làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, Việt Nam cần khai thác các động lực tăng trưởng mới, các mô hình kinh tế mới...
Tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025 với chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu", TS. Nguyễn Đức Hiển đã chia sẻ các mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 và giai đoạn 2026-2030; các xu hướng lớn tác động đến kinh tế Việt Nam; động lực tăng trưởng truyền thống; thúc đẩy các mô hình kinh tế mới và giải pháp đột phá tạo sức bật cho phát triển kinh tế Việt Nam…
Cập nhật dự báo của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng kinh tế Việt Nam, ông Hiển cho biết theo dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2025 sẽ tăng nhẹ, tháng 9/2025 là 6,7% so với dự báo tháng 4 là 6,6%.
Còn theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trong tháng 9/2025, triển vọng tăng trưởng có sự hạn chế và sẽ giảm vào năm 2026.
Trong khi đó, Ngân hàng UOB của Singapore nâng mức dự báo năm 2025 và kinh tế vẫn được hỗ trợ bởi xuất khẩu, cho dù tiềm ẩn những rủi ro liên quan, đặc biệt là liên quan đến đầu tư hạ tầng lớn. Ngân hàng này giữ nguyên dự báo năm 2026 ở mức khoảng 7%.
Về mục tiêu tăng trưởng, dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV đưa ra mục tiêu giai đoạn 2026-2030 là trên 10%. Chính phủ đề ra mục tiêu trong năm 2025 là 8,3-8,5% và giai đoạn 2026-2030 là tăng trưởng hai con số, trên 10%. Dựa trên các dữ liệu, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương dự báo kịch bản cơ sở tăng trưởng với các điều kiện khả quan khoảng 8,1% và kịch bản cao là 9%.
Có thể thấy mục tiêu đề ra rất cao và nhiều mục tiêu rất tham vọng cho năm 2025 cũng như là giai đoạn 5 năm tới.
Việt Nam có những lợi thế tích cực, đón nhận sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư, có hội phát triển mạnh mẽ các công nghệ công nghệ số, thúc đẩy phát triển công nghiệp xanh, năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, theo ông Hiển, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhìn chung vẫn là truyền thống và chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước. Cùng với đó là nguy cơ “bị bỏ lại phía sau” nếu quá trình bắt nhịp, đón bắt công nghệ không thành công. Ông Hiển cũng chỉ ra những tác động đến sản xuất và tăng trưởng kinh tế liên quan đến chính sách thuế đối ứng của Mỹ và những rủi ro trở thành trung gian sản xuất và công nghệ…
Ở trong nước, dựa trên tính toán, đánh giá tác động của các xu hướng truyền thống lên tốc độ tăng trưởng, các mục tiêu, ông Hiển nêu rõ: “Việc duy trì mô hình tăng trưởng cũ trên cơ sở xu hướng, cách thức khai thác các động lực tăng trưởng truyền thống sẽ trở thành một thách thức lớn với mục tiêu tăng trưởng nếu không có thay đổi yêu cầu liên quan đến mô hình tăng trưởng”.
Cùng với năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), nếu không thực sự cải thiện về năng suất lao động thì khó có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng hai con số. Vì vậy, “đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo phải hướng đến dịch chuyển, tăng đóng góp của TFP và năng suất lao động vào tăng trưởng”, ông Hiển cho biết.
Phân tích cụ thể vào ngành, lĩnh vực, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chỉ rõ: khu vực FDI đóng góp vào GDP khoảng 20% và trong nước đóng góp 80%. Tuy nhiên xuất khẩu của FDI chiếm tới 71,3%. FDI chi phối trong xuất khẩu các sản phẩm điện tử, máy tính và linh kiện, giày dép, dệt may.
Đáng chú ý trong thời gian gần đây, dòng tiền chi trả sở hữu ra nước ngoài có xu hướng tăng mạnh.
Liên quan đến sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam có kết nối tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thấp, chỉ có khoảng 18%, giảm 17 điểm phần trăm so với năm 2009 và chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn. Chất lượng các ngành cung ứng nội địa được đánh giá là chưa cao. Riêng công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng được khoảng 10-15% nhu cầu trong nước.
Đánh giá yếu tố nội lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, qua nghiên cứu tính toán, ông Hiển chỉ rõ: hầu hết những ngành công nghiệp chế biến chế tạo tuy có chỉ số lan tỏa và độ nhạy cao nhưng kích thích đến nhập khẩu và lan tỏa đến giá trị tăng thêm thấp hơn mức bình quân chung. “Điều này phản ánh cơ bản nhiều ngành nghề dừng ở mức gia công”, ông Hiển nhận xét.
Hiện nay, trong 63 tiểu ngành của bảng phân ngành chỉ có 11 ngành là có chỉ số lan tỏa cao đến giá trị tăng thêm và lan tỏa thấp đến nhập khẩu.
Đánh giá tỷ lệ nội địa hóa các ngành nghề, hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong giá trị xuất khẩu của Việt Nam ở trong từng ngành cho thấy điện tử, máy vi tính là khoảng 28%, dệt may 36,3%, da giày 34% và gỗ là cao nhất khoảng 53,4%. Còn lại các lĩnh vực, tỷ lệ giá trị gia tăng trong nước trong giá trị xuất khẩu ở mức hầu hết là thấp.
Như vậy, "doanh nghiệp nội địa mới tham gia được vào các khâu trung gian và khi đối chiếu còn thấp hơn nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ", ông Hiển cho biết.
Trong khi đó, ngành công nghiệp công nghệ số được đánh giá có triển vọng khả quan hơn với sự gia tăng phát triển nhanh. Tuy nhiên, khi phân tích giá trị "Make in Vietnam", nội lực của doanh nghiệp ngành công nghệ số, hàm lượng giá trị của Việt Nam trong doanh thu công nghiệp công nghệ số có cải thiện nhưng còn thấp, dưới 40%.
Liên quan đến tỷ trọng giá trị gia tăng, nội địa hóa, hàm lượng gia tăng trong nước của các ngành cho thấy ngay cả ngành liên quan đến sản phẩm điện tử mới nội địa hóa đạt khoảng 15-18%. Hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong xuất khẩu chỉ ở mức thấp 27,8% và thấp xa hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực và thế giới
Theo ông Hiển “chúng ta xuất khẩu điện thoại có thể lớn về mặt giá trị nhưng giá trị gia tăng thu được thấp. Đây là điều đáng suy nghĩ. Hàm lượng giá trị gia tăng chỉ đạt khoảng 12%. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ của ngành công nghiệp chế tạo khoảng 18%”.
Khu vực doanh nghiệp trong nước thể hiện vai trò còn hạn chế trong xuất khẩu vì trên 90% giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI trong lĩnh vực về công nghiệp công nghệ số. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi liên kết tập đoàn lớn cũng rất hạn chế.
Đối với ngành bán dẫn của Việt Nam đang có cải thiện tích cực. Vị thế ngành bán dẫn gia tăng với khoảng 2% giá trị xuất khẩu toàn cầu, là quốc gia xuất khẩu vi mạch bán dẫn đứng thứ 10 trên thế giới với giá trị xuất khẩu khoảng 25 tỷ USD.
Tuy nhiên Việt Nam chưa sản xuất được vi mạch bán dẫn, mà chỉ thuần túy dựa vào nhập khẩu vi mạch bán dẫn. Hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng vi mạch bán dẫn chủ yếu tập trung vào công đoạn lắp ráp và kiểm thử, chiếm khoảng 6% giá trị gia tăng ngành vi mạch bán dẫn.
Chia sẻ các động lực tăng trưởng mới, ông Hiển chỉ rõ các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế dữ liệu, xanh bền vững, các ngành kinh tế mới như kinh tế tầm thấp, kinh tế cận biên, kinh tế không gian vũ trụ, kinh tế tuần hoàn.
Về kinh tế số, theo đánh giá từ nghiên cứu quốc tế và trong nước, đây là ngành có triển vọng mang lại đóng góp tăng trưởng đột phá của Việt Nam, dự báo có thể mang lại từ 90-200 tỷ USD vào năm 2030. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ AI thành công có thể đóng góp 120-130 tỷ USD vào GDP…
Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2024, kinh tế số đóng góp 18,3% GDP nhưng kinh tế lõi, ngành công nghiệp công nghệ thông tin, công nghệ số đóng góp phần lớn giá trị, chiếm đến 62%.
Kinh tế số được dự báo sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính, thay thế dần mô hình tăng trưởng dựa trên vốn đầu tư và tài nguyên. Mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số đóng góp 30% GDP là một thách thức lớn.
Đối với động lực mới kinh tế xanh, đầu tư xanh từ khu vực tư nhân có xu hướng tăng, đạt khoảng 161 triệu USD trong năm 2024, chiếm khoảng 2% tổng đầu tư. Việt Nam đã có những thành công nhất định trong bán thí điểm tín chỉ carbon.
Việt Nam cũng là nước sở hữu tiềm năng lớn phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng mặt trời. Bên cạnh đó, chỉ số chuyển dịch năng lượng năm 2024 của Việt Nam xếp thứ 32/120 nước, thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong quá trình chuyển đổi xanh.
Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ về thể chế, chính sách cho mục tiêu chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đối mặt với những thách thức về chi phí lớn trong chuyển đổi xanh, ước tính tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm…
Từ phân tích những cơ hội, tiềm năng cũng như khó khăn thách thức trong vấn đề về năng lực nội sinh, năng lực tự chủ của các ngành ở Việt Nam, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cũng đề xuất các định hướng chính sách và giải pháp đột phá tạo sự bứt phá phát triển kinh tế Việt Nam, tăng cường nội lực, thúc đẩy tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu...
Đây là thời điểm đất nước rất cần sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân để cùng kiến tạo một mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam bứt phá, đạt tăng trưởng hai con số. Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh bốn định hướng tập trung trao đổi để nâng cao năng lực nội sinh, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sức bật cho kinh tế Việt Nam...
Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải. Áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”...
Khoản vay sẽ hỗ trợ Đà Nẵng và Gia Lai nâng cao khả năng chống chịu, quản lý rủi ro thiên tai và phát triển hạ tầng bền vững...
Việt Nam thường xuyên chịu ảnh hưởng mạnh từ hiện tượng La Niña, khi tần suất bão và lũ lụt gia tăng, đặc biệt tại miền Trung. Ở đồng bằng sông Hồng, La Niña kết hợp với bão cuối mùa gây rủi ro ngập lụt đô thị. Đồng bằng sông Cửu Long đứng trước nguy cơ đặc biệt cao khi La Niña làm gia tăng lượng mưa trên toàn lưu vực Mekong. Lũ từ thượng nguồn đổ về kết hợp triều cường và nước biển dâng khiến tình trạng ngập lụt kéo dài…
Dự án CASE Việt Nam sẽ đóng góp quan trọng trong việc củng cố nền tảng khoa học – công nghệ, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng sạch, mở rộng hợp tác quốc tế, qua đó góp phần đưa các cam kết của Việt Nam vào hành động cụ thể...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: