Tham ô 10 tỷ đồng, Dương Chí Dũng đối mặt án tử hình
Cá nhân bị cáo Dũng được Viện Kiểm sát xác định là đã tham ô 10 tỷ đồng của Nhà nước
Sáng 12/12, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và tham ô tài sản xảy ra tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines).
Hội đồng xét xử gồm 5 người, do thẩm phán Ngô Thị Ánh làm chủ tọa.
10 bị cáo trong vụ án này gồm Dương Chí Dũng (sinh năm 1957, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải - Bộ Giao thông vận tải) cùng 9 đồng phạm: Mai Văn Phúc (Tổng Giám đốc), Trần Hữu Chiều (Phó tổng giám đốc), Bùi Thị Bích Loan (Kế toán trưởng), Mai Văn Khang (thành viên Ban quản lý dự án Vinalines), Trần Hải Sơn (Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn sửa chữa tàu biển Vinalines), Lê Văn Dương (Đăng kiểm viên, Cục Đăng kiểm Việt Nam), Huỳnh Hữu Đức, Lê Ngọc Triện và Lê Văn Lừng (cán bộ Chi cục Hải quan Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa) bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 165, khoản 3 – Bộ luật Hình sự.
Riêng 4 bị cáo: Dũng, Phúc, Sơn, Chiều còn bị truy tố thêm tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 278, khoản 4 - Bộ luật Hình sự.
Ngoại trừ bị cáo Mai Văn Khang được tại ngoại, 9 bị cáo còn lại đều bị tạm giam.
13 luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo có mặt tại phiên tòa. Riêng bị cáo Dương Chí Dũng có 3 luật sư tham gia bào chữa, gồm: Ngô Ngọc Thủy, Trần Đại Thắng và Trần Đình Triển.
Bị cáo Trần Hữu Chiều không mời luật sư bào chữa. Tuy nhiên, do bị cáo Chiều bị truy tố tại điều khoản có mức cao nhất của khung hình phạt lên đến mức án tử hình nên Tòa đã đề nghị Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cử luật sư bào chữa cho bị cáo Chiều.
Đoàn Luật sư Hà Nội đã chỉ định luật sư Nguyễn Đình Khỏe tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Trần Hữu Chiều tại phiên tòa.
Có mặt tại Tòa còn có 5 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, 7 người làm chứng và đại diện các cơ quan: Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Ngân hàng Citybank…
Phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí tham dự, đưa tin về phiên tòa.
Hai kiểm sát viên là ông Nguyễn Trí Dũng và Trương Tuấn Hưng đại diện cho Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố trước Tòa.
Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, kiểm sát viên đã công bố bản cáo trạng truy tố nêu rõ: Trong thời gian từ đầu năm 2007 đến hết năm 2008, thông qua việc mua ụ nổi 83M với Công ty AP – Singapore , Dương Chí Dũng cùng các đồng phạm đã không thực hiện theo quy định của Nhà nước, làm trái các quy định của pháp luật về đầu tư, đấu thầu, điều kiện nhập khẩu tàu biển, quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại…
Hành vi của các bị cáo đã gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước 366.930.032.432 đồng. Trong vụ mua bán này, sau khi thanh toán 9 triệu USD cho Công ty AP, Dũng, Phúc, Sơn và Chiều đã tham ô 28.198.379.058 đồng là số tiền thanh toán mua ụ nổi 83M được Công ty AP chuyển lại Việt Nam.
Cụ thể, quá trình tổ chức chào hàng cạnh tranh, lựa chọn nhà thầu cung cấp ụ nổi, Vinalines không có thư thông báo mời thầu nhưng có 2 công ty gửi thư chào bán, gồm: Công ty AP – Singapore chào bán ụ nổi 220 sản xuất năm 1969 tại Thụy Điển và ụ nổi Dock No 83M; Công ty môi giới Mega Marine LLC/USA chào bán ụ nổi 194M sản xuất năm 1988 tại Nam Tư. Khi tổ chức khảo sát, Vinalines không khảo sát ụ nổi 194M mà chỉ khảo sát ụ nổi 220 và 83M do Công ty AP chào bán.
Để kiểm tra và xác nhận trạng thái kỹ thuật, ngày 27/7/2007, Phúc đã ký quyết định thành lập đoàn khảo sát gồm: Chiều, Khang, Sơn, Dương và một phiên dịch tiếng Nga cùng tiến hành khảo sát trình trạng kỹ thuật ụ nổi 83M tại cảng Nakhodka, Liên bang Nga.
Từ ngày 2-5/8/2007, đoàn khảo sát với những thành phần trên không tiến hành làm việc với đại diện Nhà máy Nakhodka mà chỉ tiếp xúc, giao dịch với Giám đốc Công ty AP. Qua khảo sát, các thành viên đều biết chủ sở hữu ụ nổi 83M là Công ty Nakhodka; Công ty AP chỉ là nhà môi giới; ụ nổi 83M được sản xuất năm 1965 tại Nhật Bản, bị hư hỏng nhiều, không còn hoạt động và đã bị Đăng kiểm Nga dừng phân cấp từ năm 2006.
Công ty Nakhodka (Liên bang Nga) là chủ sở hữu đưa ra giá để đàm phán là dưới 5 triệu USD. Khi về Việt Nam, Chiều và Sơn trực tiếp đến gặp Dũng và Phúc để báo cáo các thông tin trên, nhưng Dũng và Phúc vẫn chỉ đạo: “Phải lập báo cáo kết quả khảo sát để đủ điều kiện mua được ụ nổi 83M qua Công ty AP – Singapore, không mua trực tiếp của Công ty Nakhodka.”
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Dũng và Phúc, Chiều và Sơn đã gặp Dương đề nghị giúp Vinalines hợp thức thủ tục mua ụ nổi 83M. Do vậy, Dương đã lập Biên bản kiểm tra giám định có nội dung không đúng thực tế tình trạng kỹ thuật ụ nổi, không ghi rõ ụ nổi ở trạng thái xấu, không hoạt động được.
Trên cơ sở Biên bản kiểm tra giám định này, Chiều yêu cầu Sơn và Khang lập Báo cáo kế quả khảo sát gửi Dũng và Phúc, trong đó có nội dung: “Nhà máy đang sửa chữa một con tàu, đoàn chứng kiến việc ụ hạ thủy, nổi lên… ụ nổi ở trạng thái hoạt động bình thường; Công ty AP – Singapore là người bán ụ…”, đồng thời không phản ánh việc Công ty Nakhodka chào bán ụ 83M với giá dưới 5 triệu USD.
Trong vụ án này, điều nghiêm trọng là tuy biết được giá chào bán ụ nổi 83M của Công ty Nakhodka là dưới 5 triệu USD, nhưng ngày 15/2/2008, Dũng vẫn ký Quyết định số 186/QĐ-HĐQT phê duyệt điều chỉnh phương thức đầu tư dự án mua ụ nổi 83M của Công ty AP – Singapore với giá mua là 9 triệu USD.
Đáng lưu ý, trước khi Vinalines ký hợp đồng mua ụ nổi 83M giá 9 triệu USD với Công ty AP thì ngày 28/2/2008, Công ty Nakhodka và Công ty AP ký hợp đồng số 01-08 mua bán ụ nổi 83M với giá 2,3 triệu USD.
Theo đánh giá của Viện Kiểm sát, trong vụ án này, bị cáo Dương Chí Dũng đóng vai trò chủ mưu, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cá nhân bị cáo Dũng được Viện Kiểm sát xác định là đã tham ô 10 tỷ đồng của Nhà nước.
Phiên tòa dự kiến diễn ra trong 3 ngày.
(Nguồn: TTXVN)
Hội đồng xét xử gồm 5 người, do thẩm phán Ngô Thị Ánh làm chủ tọa.
10 bị cáo trong vụ án này gồm Dương Chí Dũng (sinh năm 1957, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải - Bộ Giao thông vận tải) cùng 9 đồng phạm: Mai Văn Phúc (Tổng Giám đốc), Trần Hữu Chiều (Phó tổng giám đốc), Bùi Thị Bích Loan (Kế toán trưởng), Mai Văn Khang (thành viên Ban quản lý dự án Vinalines), Trần Hải Sơn (Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn sửa chữa tàu biển Vinalines), Lê Văn Dương (Đăng kiểm viên, Cục Đăng kiểm Việt Nam), Huỳnh Hữu Đức, Lê Ngọc Triện và Lê Văn Lừng (cán bộ Chi cục Hải quan Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa) bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 165, khoản 3 – Bộ luật Hình sự.
Riêng 4 bị cáo: Dũng, Phúc, Sơn, Chiều còn bị truy tố thêm tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 278, khoản 4 - Bộ luật Hình sự.
Ngoại trừ bị cáo Mai Văn Khang được tại ngoại, 9 bị cáo còn lại đều bị tạm giam.
13 luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo có mặt tại phiên tòa. Riêng bị cáo Dương Chí Dũng có 3 luật sư tham gia bào chữa, gồm: Ngô Ngọc Thủy, Trần Đại Thắng và Trần Đình Triển.
Bị cáo Trần Hữu Chiều không mời luật sư bào chữa. Tuy nhiên, do bị cáo Chiều bị truy tố tại điều khoản có mức cao nhất của khung hình phạt lên đến mức án tử hình nên Tòa đã đề nghị Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cử luật sư bào chữa cho bị cáo Chiều.
Đoàn Luật sư Hà Nội đã chỉ định luật sư Nguyễn Đình Khỏe tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Trần Hữu Chiều tại phiên tòa.
Có mặt tại Tòa còn có 5 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, 7 người làm chứng và đại diện các cơ quan: Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Ngân hàng Citybank…
Phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí tham dự, đưa tin về phiên tòa.
Hai kiểm sát viên là ông Nguyễn Trí Dũng và Trương Tuấn Hưng đại diện cho Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố trước Tòa.
Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, kiểm sát viên đã công bố bản cáo trạng truy tố nêu rõ: Trong thời gian từ đầu năm 2007 đến hết năm 2008, thông qua việc mua ụ nổi 83M với Công ty AP – Singapore , Dương Chí Dũng cùng các đồng phạm đã không thực hiện theo quy định của Nhà nước, làm trái các quy định của pháp luật về đầu tư, đấu thầu, điều kiện nhập khẩu tàu biển, quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại…
Hành vi của các bị cáo đã gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước 366.930.032.432 đồng. Trong vụ mua bán này, sau khi thanh toán 9 triệu USD cho Công ty AP, Dũng, Phúc, Sơn và Chiều đã tham ô 28.198.379.058 đồng là số tiền thanh toán mua ụ nổi 83M được Công ty AP chuyển lại Việt Nam.
Cụ thể, quá trình tổ chức chào hàng cạnh tranh, lựa chọn nhà thầu cung cấp ụ nổi, Vinalines không có thư thông báo mời thầu nhưng có 2 công ty gửi thư chào bán, gồm: Công ty AP – Singapore chào bán ụ nổi 220 sản xuất năm 1969 tại Thụy Điển và ụ nổi Dock No 83M; Công ty môi giới Mega Marine LLC/USA chào bán ụ nổi 194M sản xuất năm 1988 tại Nam Tư. Khi tổ chức khảo sát, Vinalines không khảo sát ụ nổi 194M mà chỉ khảo sát ụ nổi 220 và 83M do Công ty AP chào bán.
Để kiểm tra và xác nhận trạng thái kỹ thuật, ngày 27/7/2007, Phúc đã ký quyết định thành lập đoàn khảo sát gồm: Chiều, Khang, Sơn, Dương và một phiên dịch tiếng Nga cùng tiến hành khảo sát trình trạng kỹ thuật ụ nổi 83M tại cảng Nakhodka, Liên bang Nga.
Từ ngày 2-5/8/2007, đoàn khảo sát với những thành phần trên không tiến hành làm việc với đại diện Nhà máy Nakhodka mà chỉ tiếp xúc, giao dịch với Giám đốc Công ty AP. Qua khảo sát, các thành viên đều biết chủ sở hữu ụ nổi 83M là Công ty Nakhodka; Công ty AP chỉ là nhà môi giới; ụ nổi 83M được sản xuất năm 1965 tại Nhật Bản, bị hư hỏng nhiều, không còn hoạt động và đã bị Đăng kiểm Nga dừng phân cấp từ năm 2006.
Công ty Nakhodka (Liên bang Nga) là chủ sở hữu đưa ra giá để đàm phán là dưới 5 triệu USD. Khi về Việt Nam, Chiều và Sơn trực tiếp đến gặp Dũng và Phúc để báo cáo các thông tin trên, nhưng Dũng và Phúc vẫn chỉ đạo: “Phải lập báo cáo kết quả khảo sát để đủ điều kiện mua được ụ nổi 83M qua Công ty AP – Singapore, không mua trực tiếp của Công ty Nakhodka.”
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Dũng và Phúc, Chiều và Sơn đã gặp Dương đề nghị giúp Vinalines hợp thức thủ tục mua ụ nổi 83M. Do vậy, Dương đã lập Biên bản kiểm tra giám định có nội dung không đúng thực tế tình trạng kỹ thuật ụ nổi, không ghi rõ ụ nổi ở trạng thái xấu, không hoạt động được.
Trên cơ sở Biên bản kiểm tra giám định này, Chiều yêu cầu Sơn và Khang lập Báo cáo kế quả khảo sát gửi Dũng và Phúc, trong đó có nội dung: “Nhà máy đang sửa chữa một con tàu, đoàn chứng kiến việc ụ hạ thủy, nổi lên… ụ nổi ở trạng thái hoạt động bình thường; Công ty AP – Singapore là người bán ụ…”, đồng thời không phản ánh việc Công ty Nakhodka chào bán ụ 83M với giá dưới 5 triệu USD.
Trong vụ án này, điều nghiêm trọng là tuy biết được giá chào bán ụ nổi 83M của Công ty Nakhodka là dưới 5 triệu USD, nhưng ngày 15/2/2008, Dũng vẫn ký Quyết định số 186/QĐ-HĐQT phê duyệt điều chỉnh phương thức đầu tư dự án mua ụ nổi 83M của Công ty AP – Singapore với giá mua là 9 triệu USD.
Đáng lưu ý, trước khi Vinalines ký hợp đồng mua ụ nổi 83M giá 9 triệu USD với Công ty AP thì ngày 28/2/2008, Công ty Nakhodka và Công ty AP ký hợp đồng số 01-08 mua bán ụ nổi 83M với giá 2,3 triệu USD.
Theo đánh giá của Viện Kiểm sát, trong vụ án này, bị cáo Dương Chí Dũng đóng vai trò chủ mưu, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cá nhân bị cáo Dũng được Viện Kiểm sát xác định là đã tham ô 10 tỷ đồng của Nhà nước.
Phiên tòa dự kiến diễn ra trong 3 ngày.
(Nguồn: TTXVN)