Tháng 6/2025: Việt Nam bắt đầu phân bổ hạn ngạch và thí điểm trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính
Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 06 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozone đã đưa ra lộ trình phát triển thị trường carbon của Việt Nam. Theo kế hoạch, đến tháng 6/2025 Việt Nam sẽ bắt đầu phân bổ hạn ngạch và triển khai thí điểm hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS)...
Tại hội thảo khởi động Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam do Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên Hợp Quốc (UNOPS) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa tổ chức, các chuyên gia nhấn mạnh là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã tích cực tham gia các nỗ lực quốc tế về biến đổi khí hậu và chủ động đưa ra các cam kết lớn trong việc giảm phát thải khí nhà kính.
HƠN 70 QUỐC GIA ĐÃ ÁP DỤNG ĐỊNH GIÁ CARBON
Đặc biệt, tại Hội nghị COP 26, Việt Nam đã cam kết sẽ đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được các cam kết này và mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam, một trong những biện pháp quan trọng là định giá carbon.
Để giảm phát thải, đạt phát thải ròng bằng không, một trong những giải pháp quan trọng đó là phải chuyển đổi năng lượng từ “nâu” sang “xanh”; đẩy mạnh sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sử dụng tiết kiệm năng lượng tài nguyên thông qua áp dụng các công nghệ tiên tiến, ít phát thải; triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn; chuyển đổi sản xuất trong nông nghiệp, điển hình như Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp, chất lượng cao… Theo tính toán, mỗi ha sản xuất lúa áp dụng mô hình này có thể giảm lượng phát thải từ 3- 5 tấn CO2.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng nhấn mạnh tới biện pháp phát triển rừng và các hệ sinh thái nhằm tăng cường hấp thụ khí nhà kính. Các hệ sinh thái ven biển, rừng ngập mặn hấp thụ nhiều gấp 4 lần rừng tự nhiên.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang nghiên cứu và hướng tới áp dụng biện pháp thu hồi và lưu trữ carbon. Mặc dù, việc áp dụng biện pháp này sẽ rất tốn kém nhưng trong tương lai, khi công nghệ đã phát triển thì đây sẽ là phương án hiệu quả và khả thi.
Đối với biện pháp định giá carbon, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, thông tin hiện đã có hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới áp dụng định giá carbon (bao gồm thuế carbon và thị trường carbon).
Việc định giá carbon giúp kiểm soát khoảng hơn 11 tỷ tấn carbon, tương đương khoảng 20% lượng phát thải toàn cầu (ước lượng mỗi năm trên thế giới phát thải khoảng hơn 50 tỷ tấn carbon). Đây là xu thế tất yếu mà Việt Nam không thể không tham gia.
Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu nhấn mạnh Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 06 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozone đã đưa ra lộ trình phát triển thị trường carbon của Việt Nam. Theo đó, đến tháng 6/2025 sẽ bắt đầu phân bổ hạn ngạch và triển khai thí điểm hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS).
“Quy định và lộ trình đã có nhưng việc triển khai cần phải được đánh giá, tính toán cụ thể. Trong thời gian tới, cần phải có phương án thiết kế và quản lý với xây dựng hệ thống ETS phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của Việt Nam”, ông Quang nói.
Để thiết kế xây dựng hệ thống này cần có bước đánh giá tác động, mức độ ảnh hưởng ở tầm vĩ mô cũng như với các doanh nghiệp. Việc đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam Chương trình đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á, UNOPS hỗ trợ thực hiện, kéo dài từ nay đến tháng 6/2025, nhằm phục vụ thiết kế hệ thống ETS ở Việt Nam.
HƯỚNG TỚI VẬN HÀNH HIỆU QUẢ THỊ TRƯỜNG CARBON TẠI VIỆT NAM
Hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Na” do UNOPS tài trợ trong khuôn khổ Chương trình Đối tác Chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), nhằm hỗ trợ Cục Biến đổi Khí hậu trong việc phát triển thị trường carbon tại Việt Nam.
Thông qua quá trình phân tích và xây dựng mô hình đánh giá tác động cho các phương án quản lý tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính tại Việt Nam, từ đó cung cấp các khuyến nghị để hỗ trợ quá trình xây dựng hệ thống pháp lý quốc gia, hướng tới việc vận hành hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam.
Tại hội thảo, các chuyên gia đã cập nhật về các quy định quản lý thị trường carbon trong nước và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế của Việt Nam; đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong xác định các phương án quản lý và đánh giá tác động đối với Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế.
Dự kiến trong giai đoạn thí điểm, chỉ có khoảng 150 doanh nghiệp là các cơ sở phát thải lớn thuộc các lĩnh vực sản xuất sắt, thép; xi măng; nhiệt điện được đưa vào thị trường carbon. Hạn ngạch sẽ được phân bổ 100% miễn phí trong giai đoạn thí điểm thị trường carbon.
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tổ chức và quản lý các hoạt động trao đổi, thu hồi, nộp trả, vay mượn hạn ngạch. Sau đó, Việt Nam sẽ vận hành chính thức thị trường carbon từ năm 2028 và dự kiến kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế, khu vực từ sau năm 2030.
Bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC), Trưởng nhóm chuyên gia chính sách khí hậu, thông tin hỗ trợ kỹ thuật lần này sẽ phân tích khung pháp lý của Việt Nam và xem xét kinh nghiệm quốc tế để xác định các phương án thiết kế và quản lý đối với việc xây dựng Hệ thống ETS, tập trung vào các phương án khả thi cho vận hành thí điểm thị trường carbon trong giai đoạn 2025-2027.
Nhóm tư vấn sẽ đánh giá và mô hình hóa tác động của các phương án quản lý ETS tại Việt Nam, bao gồm việc phân tích các tác động cụ thể về kinh tế xã hội và môi trường của những phương án này, đặc biệt là tác động đối với các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng.
Nhóm tư vấn cũng đánh giá, mô hình hóa các tác động kinh tế xã hội và môi trường của việc giao dịch tín chỉ carbon và các kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam ra quốc tế. Đồng thời sẽ cung cấp các khuyến nghị, nhằm xác định các phương án quản lý tối ưu đối với tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Hỗ trợ kỹ thuật sẽ cung cấp tư vấn chuyên môn từ các chuyên gia, khuyến nghị giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra thiết kế phù hợp với thị trường trong nước, hài hòa với các quy định hiện hành, góp phần đẩy mạnh nỗ lực giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong xác định các phương án quản lý và đánh giá tác động cho ETS, TS. Robert Ritz, Đại học Cambridge, cho biết việc định giá carbon có khả năng giảm phát thải một cách nhanh chóng và hiệu quả về chi phí.
Ví dụ tại Anh, việc áp dụng thuế carbon trong ngành điện đã giúp giảm 26% lượng CO₂ liên quan đến sản xuất điện trong 3 năm. Từ đầu tháng 10/2024, Anh dừng sản xuất điện từ than đá.
Theo TS. Robert Ritz, việc quy định hạn ngạch phát thải chính là yếu tố thúc đẩy định giá carbon nhưng nhà quản lý cần tính đến hỗ trợ chính sách nhằm hạn chế việc chuyển chi phí carbon, tăng giá sản phẩm đến người tiêu dùng để bù đắp chi phí tăng thêm do giá carbon.
Về tín chỉ carbon, Điều 6 Thỏa thuận Paris cung cấp một cơ chế để các quốc gia tự nguyện tham gia vào việc trao đổi tín chỉ carbon (ITMOs). Các doanh nghiệp, chính phủ có thể đầu tư vào các dự án giảm nhẹ hoặc mua ITMOs từ các dự án giảm nhẹ, qua đó chuyển giao tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực cho các quốc gia nơi dự án được thực hiện.
Tín chỉ carbon cũng sẽ được chuyển giao và đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của quốc gia/cơ chế quốc tế khác. Đây cũng là nguồn thu giúp giảm nhẹ gánh nặng tài chính trong nỗ lực giảm phát thải của quốc gia.
Đưa ra lưu ý khi xác định phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon quốc tế, các chuyên gia tư vấn cho rằng Chính phủ cần cân nhắc mức độ chắc chắn đạt được mục tiêu giảm phát thải theo Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC), mức độ thu hút đầu tư quốc tế và vai trò của các khoản thu theo Điều 6 cho giảm nhẹ trong nước. Cùng với minh bạch trong cơ chế quản lý, cần đơn giản hóa các quy tắc và yêu cầu để thuận tiện cho công tác quản lý và giúp các bên tham gia thị trường dễ dàng thiết lập mô hình tài chính.