06:00 06/09/2021

Tháng 8: Xã hội giãn cách, kinh tế “co lại”

Mạnh Đức

Làn sóng Covid-19 lần thứ tư bùng phát mạnh cùng với các đợt giãn cách xã hội đã khiến hoạt động của hầu hết các ngành, lĩnh vực quan trọng bị ảnh hưởng nặng nề, thậm chí là đứt gãy. Nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày, gỗ, điện tử... đang đối mặt nguy cơ bị bật ra khỏi các chuỗi cung ứng toàn cầu…

Covid đã "ngấm sâu" vào tất cả các ngành/lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
Covid đã "ngấm sâu" vào tất cả các ngành/lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2021 của Tổng cục Thống kê, đại dịch Covid-19 đã “ngấm sâu” vào tất cả các ngành/lĩnh vực quan trọng như sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng…

SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP “GẮNG GƯỢNG” TĂNG TRƯỞNG

Chịu ảnh hưởng nặng nề khi dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 giảm 4,2% so với tháng trước và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 8 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù cao hơn tốc độ tăng 2,2% của cùng kỳ năm 2020 nhưng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 9,5% của cùng kỳ năm 2019.

Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 7% (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,7%), đóng góp 5,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,2%, làm giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Tháng 8: Xã hội giãn cách, kinh tế “co lại” - Ảnh 1

Trong 8 tháng qua, một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước, gồm: kim loại tăng 30,4%; xe có động cơ tăng 23,1%; máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 9,2%; dệt và sản xuất giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 8,2%; da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,9%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 7,8%...

Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm là thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 13,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 7,6%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3,6%.

 
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, một số địa phương có chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2021 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước là Đồng Tháp giảm 10,9%; Khánh Hòa giảm 7,9%; Bến Tre giảm 6,9% Thành phố Hồ Chí Minh giảm 6,6%; Trà Vinh giảm 4%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3%.

Một số địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2021 tăng so với cùng kỳ như Ninh Thuận tăng 34,1%; Nghệ An tăng 23,1%; Hải Phòng tăng 20,6%; Bắc Ninh tăng 9,8%; Quảng Ngãi tăng 9%; Hưng Yên tăng 8%; Quảng Ninh tăng 7,4%; Bắc Giang tăng 6,5%; Đồng Nai tăng 4,4%; Bình Dương tăng 4,3%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 8 tháng năm 2021 tăng so cao với cùng kỳ năm trước, gồm: Thép cán tăng 48,3%; linh kiện điện thoại tăng 43,9%; ô tô tăng 27,9%; sắt, thép thô tăng 13,7%; giày, dép da tăng 12,5%; phân hỗn hợp NPK tăng 12,3%; sữa bột tăng 11,1%; khí hóa lỏng LPG tăng 10,6%; điện thoại di động tăng 10%...

Về tình hình lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp, báo cáo cho thấy, tại thời điểm 1/8/2021 giảm 5,3% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 10,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,8% và giảm 4,3%; doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 5,6% và giảm 9,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 6% và giảm 12%.

NHẬP SIÊU GIA TĂNG

Về tình hình xuất nhập, khẩu, trong tháng 8/2021 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 53,7 tỷ USD, giảm 5,8% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa vẫn ở mức cao, đạt 428,81 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với xuất khẩu, trong 8 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 212,55 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 55,69 tỷ USD, tăng 10,5%, chiếm 26,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 156,86 tỷ USD, tăng 25,5%, chiếm 73,8%.

Có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (tăng thêm 3 mặt hàng so với cùng kỳ năm 2020), chiếm 91,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt, có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 63,1%.

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 62,2 tỷ USD, tăng 32,5%. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 32,7 tỷ USD, tăng 19,8%; EU đạt 26,1 tỷ USD, tăng 14,5%; ASEAN đạt 18,4 tỷ USD, tăng 23,3%; Hàn Quốc đạt 13,9 tỷ USD, tăng 9,9%; Nhật Bản đạt 13,5 tỷ USD, tăng 8,6%.

Tháng 8: Xã hội giãn cách, kinh tế “co lại” - Ảnh 2

Từ chiều ngược lại, 8 tháng năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 216,26 tỷ USD, tăng 33,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 76,05 tỷ USD, tăng 29,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 140,21 tỷ USD, tăng 36,4%. Có 33 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD (tăng 4 mặt hàng so với cùng kỳ năm 2020), chiếm tỉ trọng 88,7% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Về thị trường nhập khẩu hàng hóa 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ, Trung Quốc tiếp tục dẫn đầu với kim ngạch đạt 72,5 tỷ USD, tăng 47,1%. Tiếp theo là Hàn Quốc đạt 34,6 tỷ USD, tăng 20,5%; ASEAN đạt 28,2 tỷ USD, tăng 47,4%; Nhật Bản đạt 14,5 tỷ USD, tăng 13,7%; EU đạt 11 tỷ USD, tăng 17,1%. Hoa Kỳ đạt 10,4 tỷ USD, tăng 12,3%.

Như vậy, cán cân thương mại 8 tháng năm 2021 nhập siêu 3,71 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 13,69 tỷ USD). Đây là tháng thứ tư liên tiếp Việt Nam ghi nhận nhập siêu.

Tuy nhiên, trong 8 tháng qua, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu tư liệu sản xuất, khi nhóm hàng này đạt 204,16 tỷ USD, tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 94,4% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).

 
Với nhiều ngành trong nhóm công nghiệp chế biến hiện đang bị đứt gãy cung cầu do nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động khi không đáp ứng được các tiêu chuẩn “3 tại chỗ”, “1 cung đường 2 điểm đến”. Nếu kéo dài, tình trạng này sẽ gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.

Trong đó, nhóm hàng máy móc thiế́t bị, dụng cụ phụ tùng đạt 96,6 tỷ USD, tăng 27,2% và chiếm 44,7% (giảm 2,3 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 107,56 tỷ USD, tăng 41,6% và chiếm 49,7% (tăng 2,7 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 12,1 tỷ USD, tăng 24% và chiếm 5,6% (giảm 0,4 điểm phần trăm).

Theo nhận định của một số chuyên gia, xuất nhập khẩu hàng hóa những tháng còn lại của năm được dự báo đối diện với những thuận lợi và thách thức đan xen. Theo đó, dịch bệnh là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sẽ phụ thuộc rất lớn vào tốc độ kiểm soát dịch bệnh.

Trong bối cảnh hiện tại, Bộ Công Thương cũng cho rằng vẫn rất khó để đưa ra dự báo về kết quả xuất khẩu cả năm 2021, bởi phụ thuộc lớn vào kết quả khống chế dịch bệnh.

Tuy nhiên, với tiềm lực, kinh nghiệm tích lũy được trong thời gian vừa qua, cộng với những thuận lợi từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và uy tín mà doanh nghiệp đã thiết lập được thì sẽ nhanh chóng lấy lại đà phục hồi xuất khẩu trong thời gian tới.

THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC TĂNG TRƯỞNG ÂM

Dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên cả nước, nhiều địa phương  thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg đã ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động thương mại dịch vụ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8/2021 đạt 279,8 nghìn tỷ đồng, giảm 10,5% so với tháng trước và giảm 33,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 3.044,5 nghìn tỷ đồng, giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 6,2% (cùng kỳ năm 2020 giảm 5,8%).

Tháng 8: Xã hội giãn cách, kinh tế “co lại” - Ảnh 3

Xét theo ngành hoạt động trong 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.499,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 82,1% tổng mức và giảm 1,4%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 254,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,4% tổng mức và giảm 19,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,1% tổng mức và giảm 61,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 286 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,4% tổng mức và giảm 13,6%.

Thời gian tới, để thúc đẩy thị trường bán lẻ phát triển trong dịch Covid-19, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai các chương trình, biện pháp cụ thể để kích cầu tiêu dùng, phát triển thị trường trong nước hiệu quả.

Theo đó, sẽ tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các chương trình, giải pháp kích cầu tiêu dùng, phát triển mạnh thị trường trong nước; chỉ đạo Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu tại địa phương tạo thuận lợi và đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của người dân.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển mạnh thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh mới phù hợp với đặc điểm tình hình mới.

Đồng thời chú trọng phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Từ đó, góp phần bảo vệ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước để thị trường bán lẻ phát triển bền vững trong tình hình mới.

Với ngành du lịch, để khắc phục khó khăn trước ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành du lịch sẽ hoàn thiện chương trình hành động phát triển du lịch giai đoạn 2021 – 2025.

Cùng với đó, đẩy mạnh phát triển du lịch thông minh và chuyển đổi số du lịch; đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý về quản lý cơ sở lưu trú du lịch; hoàn thiện đề án phát triển kinh tế đêm, kinh tế chia sẻ; kích cầu du lịch nội địa và chuẩn bị kế hoạch đón khách quốc tế hậu Covid-19.