Việt Nam có thể thu đến 1,9 tỷ USD hàng năm khi tham gia thị trường carbon quốc tế
Phan Anh
24/09/2025, 11:11
Việc tham gia vào thị trường carbon quốc tế mang lại lợi ích tài chính và ngoại hối đáng kể cho Việt Nam. Theo kịch bản nghiên cứu tác động, doanh thu hàng năm dao động từ 59 triệu USD đến 522 triệu USD trong kịch bản S20 và từ 468,2 triệu USD đến 1,9 tỷ USD trong kịch bản S56...
Hệ thống ETS và các công cụ định giá carbon trở thành một trong những công cụ chính sách ngày càng phổ biến, hiệu quả giúp thực hiện giảm phát thải khí nhà kính.
Thông tin được nhóm nghiên cứu hỗ trợ kỹ thuật đưa ra tại Hội
thảo tổng kết “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí
nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam” do Chương trình Đối tác chuyển đổi
năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp
và Môi trường, tổ chức chiều ngày 23/9/2025.
GIÁ CARBON VÀ DOANH THU TOÀN CẦU TỪ CÁC HỆ THỐNG ETS ĐANG TĂNG MẠNH
Mục tiêu hỗ trợ kỹ thuật nhằm phân tích, xây dựng các phương
án quản lý tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính, đồng thời đánh
giá tác động. Qua đó, cung cấp các thông tin đầu vào để hỗ trợ quá trình xây dựng
hệ thống quản lý, hướng tới vận hành hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu
nhấn mạnh “xu thế chung cho thấy Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà
kính và tín chỉ carbon (hay còn gọi là thị trường ETS) và các công cụ định giá
carbon khác như thuế carbon đang trở thành một trong những công cụ chính sách
ngày càng phổ biến, hiệu quả và mạnh mẽ giúp các quốc gia thực hiện giảm phát
thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến
đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu: Việt Nam đã áp dụng công cụ ETS nhằm góp phần thực hiện mục tiêu cam kết theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo báo cáo hàng năm của WB, số lượng các ETS được áp dụng
liên tục tăng qua các năm, từ 25 vào năm 2020 lên 37 hệ thống ETS vào năm 2025.
Tương ứng, tỷ lệ kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu được các công
cụ này cũng tăng đều đặn, từ khoảng 8% lên 23%. Doanh thu toàn cầu từ các hệ thống
ETS tăng từ 25 tỷ USD năm 2020 lên 69,1 tỷ USD vào năm 2024.
“Điều này không chỉ cho thấy hiệu quả của chính sách trong
việc tạo ra nguồn lực tài chính bổ sung mà còn phản ánh mức giá carbon ngày
càng tăng”, ông Quang nhận xét.
Cùng với xu thế toàn cầu, Việt Nam đã áp dụng công cụ ETS nhằm
góp phần thực hiện mục tiêu cam kết theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(NDC) và hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Để hiện thực hóa cam kết và xây dựng thị trường carbon, Việt
Nam đã khẩn trương xây dựng và ban hành khung pháp lý quan trọng. Luật Bảo vệ
Môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định về "Tổ chức và phát triển thị
trường carbon" tại Điều 139.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
06/2022/NĐ-CP và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số
06/2022/NĐ-CP, trong đó đặt ra lộ trình cụ thể phát triển thị trường carbon với
giai đoạn thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029,
hướng tới mục tiêu thí điểm sàn giao dịch carbon ngay trong năm 2025.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách để thị trường carbon vận
hành hiệu quả, ông Quang cho biết Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường
chủ trì xây dựng Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính và tín chỉ carbon, Nghị định về hấp thu và lưu giữ carbon của rừng; Bộ
Tài chính xây dựng Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước.
NHIỆT ĐIỆN THAN LÀ NGÀNH SẼ THAM GIA MUA TÍN CHỈ CARBON CHỦ
YẾU
Thông tin về hoạt động
nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật, đánh giá các tác động, bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc
Công ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC), Trưởng Nhóm tư vấn, cho biết hoạt
động hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện trong 12 tháng, tập trung 2 nội dung chính:
các phương án quản lý ETS; các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon và kết
quả giảm phát thải từ Việt Nam ra thị trường quốc tế và đánh giá tác động của
các phương án này.
Bà Loan thông tin thêm, về phương án quản lý hệ thống giao dịch hạn ngạch tín chỉ carbon
trong nước (hệ thống ETS), kịch bản đánh giá tác động dựa
theo kinh nghiệm quốc tế và định hướng của Việt Nam, trong đó tập trung 3 lĩnh
vực thí điểm là nhiệt điện, sắt thép và xi măng.
Từ tỷ lệ đóng góp của 3 lĩnh vực này vào kiểm kê khí nhà
kính quốc gia cho thấy đây là những lĩnh vực đóng góp đáng kể. Lĩnh vực công
nghiệp đóng góp hơn 74% trong tổng khí nhà kính quốc gia; xi măng đóng góp trên
50% cho các ngành công nghiệp khác; sắt thép đóng góp hơn 84% cho các ngành thuộc
lĩnh vực luyện kim, khai khoáng. Còn nhiệt điện đóng góp tới 96% trong lĩnh vực
liên quan đến sản xuất điện.
Ông Hồ Công Hòa: Trong mọi kịch bản, ngành nhiệt điện than vẫn là ngành tham gia mua tín chỉ carbon chủ yếu, chiếm 85-90% tổng giao dịch tín chỉ carbon trên thị trường, tương đương 13-14,6 triệu tín chỉ carbon.
“Ba lĩnh vực này đóng góp gần 43% tổng kiểm kê khí nhà kính
quốc gia. Đây là một tỷ lệ bao phủ khá lớn
so với các ETS trên thế giới”, bà Loan nói.
Dựa trên các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt
Nam hiện nay, 3 kịch bản xác định tổng hạn ngạch gồm: mục tiêu do quốc gia tự
thực hiện (mục tiêu NDC không điều kiện); mục tiêu đạt được nếu có sự hỗ trợ của
quốc tế (mục tiêu NDC có điều kiện) và mục tiêu đạt được nếu có sự hỗ trợ của
quốc tế kết hợp với mục tiêu đưa ra trong Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ
đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (mục tiêu NDC có điều kiện và JETP).
Đối với mỗi kịch bản, nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động
để các doanh nghiệp, các ngành, và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam đạt được các
mục tiêu này trong trường hợp không có ETS và trường hợp có ETS với tỷ lệ sử dụng
tín chỉ bù trừ tối đa 10%, 20% và 30%.
Khi không có ETS, doanh nghiệp bắt buộc
phải đầu tư đầy đủ các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt được mục
tiêu NDC. Trong khi có thị trường ETS, doanh nghiệp sẽ được lựa chọn phương án
tối ưu: mua hạn ngạch, tín chỉ hoặc tự đầu tư vào các biện pháp giảm phát thải khí
nhà kính.
Theo chuyên gia, phân tích cho thấy ETS đóng vai trò quan trọng
trong việc phân bổ lại gánh nặng giảm phát thải khí nhà kính, giúp doanh nghiệp
linh hoạt hơn trong việc lựa chọn giữa đầu tư công nghệ và mua tài chính, đặc
biệt là đối với lĩnh vực nhiệt điện.
Trao đổi về kết quả đánh giá tác động, ông Hồ Công Hòa, Học
viện Chính sách và phát triển, Chuyên gia Nhóm tư vấn, cho biết trong kịch bản mục
tiêu ETS gắn với NDC không điều kiện, tổng chi phí tuân thủ giảm từ 420,5 triệu
USD trong trường hợp không có ETS xuống 68,9 triệu USD trong trường hợp có ETS
với tỷ lệ bù trừ 30%. Trong kịch bản theo mục tiêu NDC có điều kiện, chi phí
này giảm tương ứng từ 1,297 tỷ USD xuống 879,8 triệu USD.
Cũng theo nghiên cứu, ETS có khả năng giảm thiểu tổn thất
GDP, tiêu dùng và hạn chế áp lực lạm phát.
Nhu cầu tín chỉ carbon của thị trường với tỷ lệ bù trừ tối
đa 30% dự kiến là 56-62 triệu tín chỉ/năm, tuy nhiên khả năng hấp thụ tối đa của
thị trường chỉ ở mức 15,8-16,3 triệu tín chỉ/năm. Trong mọi kịch bản, ngành nhiệt
điện than vẫn là ngành tham gia mua tín chỉ chủ yếu, chiếm 85-90% tổng giao dịch
tín chỉ trên thị trường, tương đương 13-14,6 triệu tín chỉ.
Giá tín chỉ carbon biến động mạnh theo tỷ lệ bù trừ và mức độ
tham vọng của các mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của ETS, nghiên cứu
chỉ rõ.
TÁC ĐỘNG TỪ GIAO DỊCH TÍN CHỈ CARBON RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
Liên quan phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon ra thị
trường quốc tế, phân tích chỉ ra rằng việc tham gia vào thị trường carbon quốc
tế mang lại lợi ích tài chính và ngoại hối đáng kể cho Việt Nam.
Ông Hòa thông tin, doanh thu hàng năm dao động từ 59-522
triệu USD trong kịch bản S20 (20 biện pháp giảm nhẹ chỉ đóng góp cho mục tiêu
NDC có điều kiện) và từ 468,2 triệu USD đến 1,9 tỷ USD trong kịch bản S56 (56
biện pháp giảm nhẹ đóng góp cho cả mục tiêu NDC không điều kiện và có điều kiện).
Bà Nguyễn Hồng Loan đề xuất xây dựng phương án quản lý thống nhất với ETS và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế là yếu tố then chốt để tránh rủi ro bán vượt mức, bảo đảm đủ tín chỉ cho tuân thủ trong nước và duy trì tính toàn vẹn của mục tiêu NDC.
Việc thu phí giao dịch ở mức 2% doanh thu có thể đóng góp từ
1,2-10,4 triệu USD vào ngân sách nhà nước. Tăng trưởng GDP đạt từ 0,013-0,082%
trong trường hợp S20 và 0,068-0,32% trong trường hợp S56 tùy theo kịch bản
giá. Tiêu dùng cá nhân và việc làm tăng trong khi chỉ số giá tiêu dùng giảm nhẹ
trong tất cả các kịch bản.
Nhìn chung, việc mở rộng các biện pháp cho phép tạo tín chỉ
giao dịch trên thị trường carbon quốc tế theo kịch bản S56 mang lại lợi ích
kinh tế lớn hơn đáng kể hơn so với kịch bản S20. Công nghiệp, năng lượng, và xử
lý chất thải là những ngành hưởng lợi chính do chi phí giảm phát thải khí nhà
kính thấp. Trong khi đó các biện pháp trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp
có chi phí cao hơn và dễ gặp rủi ro tài chính trong trường hợp tín chỉ giao dịch
bị hạn chế ở mức thấp (50%).
“Tuy nhiên, tỷ lệ giao dịch cao ở mức 70% trong kịch bản S56
có thể dẫn đến nguy cơ bán quá và không đạt được mục tiêu NDC không điều kiện”.
Từ thực tế nghiên cứu trên, bà Loan đề xuất xây dựng phương
án quản lý thống nhất với ETS và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế là yếu tố then
chốt để tránh rủi ro bán vượt mức, bảo đảm đủ tín chỉ cho tuân thủ trong nước
và duy trì tính toàn vẹn của mục tiêu NDC.
Cũng tại hội thảo, các chuyên gia tư vấn quốc tế đã chia sẻ
các bước tiếp theo đối với quản lý ETS và việc quản lý mua bán tín chỉ carbon
quốc tế cho Việt Nam dựa trên kinh nghiệm quốc tế.
Đẩy nhanh tiến độ hình thành thị trường carbon trong nước, chú trọng yếu tố cung–cầu thực chất
19:12, 09/09/2025
Chuẩn bị điều kiện cho vận hành, phát triển thị trường carbon
07:36, 28/07/2025
Khoảng 200 doanh nghiệp sắt thép, xi măng, nhiệt điện sẽ tham gia thí điểm thị trường carbon
Tìm kiếm, huy động các nguồn tài chính xây dựng “ngôi nhà xanh” cho thế giới
Việt Nam luôn tham gia tích cực công ước quốc tế về đa dạng sinh học, và là một trong những quốc gia tham gia Sáng kiến tài chính đa dạng sinh học. Việt Nam đang thử nghiệm và triển khai các công cụ tài chính mới như tín chỉ carbon, tín chỉ đa dạng sinh học, bảo hiểm rủi ro thiên nhiên và quỹ bảo tồn...
Thích ứng ESG để vượt "rào cản xanh", chinh phục thị trường châu Âu
Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với rào cản xanh từ các quy định nghiêm ngặt của châu Âu. Việc thực hiện ESG không chỉ là một yêu cầu để xuất khẩu mà còn là một yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Kiểm tra chấp hành bảo vệ pháp luật về môi trường các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở 11 tỉnh, thành phố
Từ tháng 9 đếng tháng 12/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nhiều địa phương, như: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai, Đồng Nai...
Tổng Bí thư Tô Lâm dự Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030
Sáng ngày 23/9, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã long trọng khai mạc với sự tham dự của 346 đại biểu đại diện cho hơn 5.000 đảng viên trong Đảng bộ. Tổng Bí thư Tô Lâm dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Giải pháp kiểm kê khí nhà kính, tính toán dấu chân carbon đầu tiên của Việt Nam đạt chứng chỉ quốc tế
Giải pháp tự động hóa kiểm kê phát thải VertZéro được xem là giải pháp công nghệ Make in Vietnam đầu tiên đạt Chứng chỉ Phương pháp tính toán dấu chân carbon doanh nghiệp của tổ chức TÜV Rheinland Đức - một trong những chuẩn mực cao cấp và khắt khe nhất trong lĩnh vực kiểm kê khí nhà kính toàn cầu...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: