Việt Nam vẫn còn đang... đứng trước biển
Tuy có rất nhiều tiềm năng kinh tế biển, nhưng Việt Nam hiện vẫn còn là quốc gia "đứng trước biển"

Việt Nam có tiềm năng lớn về biển. Bờ biển dài tới 3.260 km, tức là cứ 100 Km2 đất liền thì có một km bờ biển; có 112 cửa sông, lạch. Vùng biển nước ta rộng trên một triệu km2, lớn gấp ba lần diện tích đất liền; có 4.000 hòn đảo lớn nhỏ. Có gần một nửa số tỉnh/ thành phố (28/64) có biển.
Tuy có nhiều tiềm năng lớn như vậy, nhưng Việt Nam hiện vẫn còn là quốc gia "đứng trước biển". "Đứng trước biển" ở đây được hiểu theo hai nghĩa.
Vẫn chưa thực sự ra biển lớn
Thứ nhất, kinh tế biển hiện mới đóng góp khoảng 12% GDP, chỉ bằng một nửa tỷ lệ dân số sống ở vùng biển so với cả nước (có cách tính khác lại đưa ra con số 18,5%, gồm khai thác hải sản chiếm 2%, khai thác dầu khí chiếm 8,5%, chế biến hải sản khoảng 2%, vận tải biển và du lịch biển chiếm 1%, sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ khác liên quan trực tiếp đến biển chiếm khoảng 5%).
Năng lực khai thác biển của Việt Nam chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản và 1/260 của thế giới. Bình quân 1 Km2 biển ở các nước phát triển thu được 100 nghìn USD, còn ở nước ta chỉ thu được 20 nghìn USD, thấp hơn nhiều lần ở các nước phát triển...
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do việc khai thác còn mang tính chất nhặt nhạnh, thậm chí tận diệt biển. Có nguyên nhân do các đảo của Việt Nam đang được khai thác một cách tự phát, mạnh ai nấy làm.
Thứ hai, đó là mới xét kinh tế biển theo nghĩa hẹp, tức là chủ yếu bao gồm đánh bắt, dầu khí và vận tải, trong khi theo nghĩa rộng, kinh tế biển bao gồm khoáng sản biển khơi, đánh bắt và nuôi trồng, vận tải tàu biển, quốc phòng, du lịch và giải trí biển, các dịch vụ biển, nghiên cứu và giáo dục, chế tạo.
Vì vậy, mục tiêu do Hội nghị TW IV và Chiến lược biển đề ra đến năm 2020, Việt Nam là quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, với giá trị kinh tế biển chiếm khoảng 53-55% GDP, 55- 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nói cách khác, Việt Nam lúc đó không còn là đứng trước biển" mà đã thực sự "ra biển lớn".
Một số nhiệm vụ trong chiến lược kinh tế biển
Trước hết cần thay đổi tư duy về biển. Sự thay đổi tư duy này được biểu hiện trên các khía cạnh. Đó là chuyển từ tư duy "nhặt nhạnh khai thác, đào bới", quanh quẩn, bó hẹp ở "ao nhà" sang tư duy "vươn ra biển lớn". Đó là chuyển từ "khai thác giá trị vật chất biển" sang "khai thác chức năng biển"...
Công tác điều tra cơ bản về biển cần được tiến hành khẩn trương để xác định được tiềm năng cả về giá trị vật chất, cả về chức năng biển; xác định các chỉ tiêu và phương pháp đo lường các chỉ tiêu về biển.
Các con số 12% GDP hiện nay (tức là mới đạt khoảng 7 tỷ USD), hay 50% giá trị xuất khẩu (tức là gần 20 tỷ USD), hay trữ lượng cá 4,7 triệu tấn... hiện chưa được tin cậy, trong khi mục tiêu đến năm 2020 đạt 53- 55% GDP (có nghĩa là nếu GDP của cả nước lúc đó đạt khoảng 180 tỷ USD, cao gấp gần 3 lần hiện nay, thì GDP do kinh tế biển tạo ra phải đạt khoảng 98 tỷ USD, gấp 14 lần hiện nay, hay cao gấp 4 lần tốc độ tăng chung) lại càng khó được tin cậy, do phạm vi và phương pháp đo lường chưa được chuẩn hoá.
Một công việc quan trọng là cần có một chiến lược tổng hợp với các nội dung quan trọng, như tìm kiếm, bảo vệ, khai thác nguồn lợi biển và ven biển; ngành nghề; an ninh; bảo vệ và làm giàu môi trường biển; khoa học- công nghệ biển; xây dựng nguồn nhân lực; hợp tác khu vực và quốc tế; quản lý thống nhất biển quốc gia...
Một số nhiệm vụ và giải pháp cần được đặt ra đến năm 2010 trên các mặt: Phát triển mạnh vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở tăng thêm tăng thêm được 192 tàu các loại, với tổng trọng tải 1,94 triệu DWT (trong đó tàu Container tăng 18 chiếc với 307,7 nghìn DWT, tàu dầu tăng 21 chiếc với 587,4 nghìn DWT...).
Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Phát triển dịch vụ hàng hải và hỗ trợ, tập trung vào hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến.
Tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển, đến năm 2010 thu hút hoảng 4-5 triệu lượt khách quốc tế, 20- 30 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đến năm 2010 đạt tổng sản lượng 4 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác 2 triệu tấn, sản lượng nuôi 2 triệu tấn, tạo việc làm cho 2 triệu lao động.
Đẩy mạnh sản xuất muối trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có, mở rộng diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích lên 30- 35 nghìn ha vào năm 2010.
Phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu. Nâng công suất cụm cảng phía Bắc lên 60 - 70 triệu tấn vào năm 2010, miền Trung 40 - 50 triệu tấn/năm, miền Nam 90 - 100 triệu tấn. Nâng cấp và chuẩn bị điều kiện xây mới một số sân bay ven biển.
Thế kỷ 21 là thế kỷ mà các dân tộc đua nhau ra biển, giành giật lợi ích từ biển. Việt Nam mới "đứng trước biển" nên cần nhanh chân hơn để "ra biển lớn" như mục tiêu đã đề ra, giống như "ra biển lớn" về lĩnh vực thương mại, đầu tư sau khi gia nhập WTO.
Tuy có nhiều tiềm năng lớn như vậy, nhưng Việt Nam hiện vẫn còn là quốc gia "đứng trước biển". "Đứng trước biển" ở đây được hiểu theo hai nghĩa.
Vẫn chưa thực sự ra biển lớn
Thứ nhất, kinh tế biển hiện mới đóng góp khoảng 12% GDP, chỉ bằng một nửa tỷ lệ dân số sống ở vùng biển so với cả nước (có cách tính khác lại đưa ra con số 18,5%, gồm khai thác hải sản chiếm 2%, khai thác dầu khí chiếm 8,5%, chế biến hải sản khoảng 2%, vận tải biển và du lịch biển chiếm 1%, sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ khác liên quan trực tiếp đến biển chiếm khoảng 5%).
Năng lực khai thác biển của Việt Nam chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản và 1/260 của thế giới. Bình quân 1 Km2 biển ở các nước phát triển thu được 100 nghìn USD, còn ở nước ta chỉ thu được 20 nghìn USD, thấp hơn nhiều lần ở các nước phát triển...
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do việc khai thác còn mang tính chất nhặt nhạnh, thậm chí tận diệt biển. Có nguyên nhân do các đảo của Việt Nam đang được khai thác một cách tự phát, mạnh ai nấy làm.
Thứ hai, đó là mới xét kinh tế biển theo nghĩa hẹp, tức là chủ yếu bao gồm đánh bắt, dầu khí và vận tải, trong khi theo nghĩa rộng, kinh tế biển bao gồm khoáng sản biển khơi, đánh bắt và nuôi trồng, vận tải tàu biển, quốc phòng, du lịch và giải trí biển, các dịch vụ biển, nghiên cứu và giáo dục, chế tạo.
Vì vậy, mục tiêu do Hội nghị TW IV và Chiến lược biển đề ra đến năm 2020, Việt Nam là quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, với giá trị kinh tế biển chiếm khoảng 53-55% GDP, 55- 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nói cách khác, Việt Nam lúc đó không còn là đứng trước biển" mà đã thực sự "ra biển lớn".
Một số nhiệm vụ trong chiến lược kinh tế biển
Trước hết cần thay đổi tư duy về biển. Sự thay đổi tư duy này được biểu hiện trên các khía cạnh. Đó là chuyển từ tư duy "nhặt nhạnh khai thác, đào bới", quanh quẩn, bó hẹp ở "ao nhà" sang tư duy "vươn ra biển lớn". Đó là chuyển từ "khai thác giá trị vật chất biển" sang "khai thác chức năng biển"...
Công tác điều tra cơ bản về biển cần được tiến hành khẩn trương để xác định được tiềm năng cả về giá trị vật chất, cả về chức năng biển; xác định các chỉ tiêu và phương pháp đo lường các chỉ tiêu về biển.
Các con số 12% GDP hiện nay (tức là mới đạt khoảng 7 tỷ USD), hay 50% giá trị xuất khẩu (tức là gần 20 tỷ USD), hay trữ lượng cá 4,7 triệu tấn... hiện chưa được tin cậy, trong khi mục tiêu đến năm 2020 đạt 53- 55% GDP (có nghĩa là nếu GDP của cả nước lúc đó đạt khoảng 180 tỷ USD, cao gấp gần 3 lần hiện nay, thì GDP do kinh tế biển tạo ra phải đạt khoảng 98 tỷ USD, gấp 14 lần hiện nay, hay cao gấp 4 lần tốc độ tăng chung) lại càng khó được tin cậy, do phạm vi và phương pháp đo lường chưa được chuẩn hoá.
Một công việc quan trọng là cần có một chiến lược tổng hợp với các nội dung quan trọng, như tìm kiếm, bảo vệ, khai thác nguồn lợi biển và ven biển; ngành nghề; an ninh; bảo vệ và làm giàu môi trường biển; khoa học- công nghệ biển; xây dựng nguồn nhân lực; hợp tác khu vực và quốc tế; quản lý thống nhất biển quốc gia...
Một số nhiệm vụ và giải pháp cần được đặt ra đến năm 2010 trên các mặt: Phát triển mạnh vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở tăng thêm tăng thêm được 192 tàu các loại, với tổng trọng tải 1,94 triệu DWT (trong đó tàu Container tăng 18 chiếc với 307,7 nghìn DWT, tàu dầu tăng 21 chiếc với 587,4 nghìn DWT...).
Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Phát triển dịch vụ hàng hải và hỗ trợ, tập trung vào hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến.
Tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển, đến năm 2010 thu hút hoảng 4-5 triệu lượt khách quốc tế, 20- 30 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đến năm 2010 đạt tổng sản lượng 4 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác 2 triệu tấn, sản lượng nuôi 2 triệu tấn, tạo việc làm cho 2 triệu lao động.
Đẩy mạnh sản xuất muối trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có, mở rộng diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích lên 30- 35 nghìn ha vào năm 2010.
Phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu. Nâng công suất cụm cảng phía Bắc lên 60 - 70 triệu tấn vào năm 2010, miền Trung 40 - 50 triệu tấn/năm, miền Nam 90 - 100 triệu tấn. Nâng cấp và chuẩn bị điều kiện xây mới một số sân bay ven biển.
Thế kỷ 21 là thế kỷ mà các dân tộc đua nhau ra biển, giành giật lợi ích từ biển. Việt Nam mới "đứng trước biển" nên cần nhanh chân hơn để "ra biển lớn" như mục tiêu đã đề ra, giống như "ra biển lớn" về lĩnh vực thương mại, đầu tư sau khi gia nhập WTO.