Xác lập nguyên tắc chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học công nghệ gắn với các biện pháp quản trị
Luật Khoa học, công nghệ (sửa đổi) và đổi mới sáng tạo đã xác lập nguyên tắc chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, gắn với các biện pháp quản trị rủi ro phù hợp và giao Chính phủ quy định tiêu chí xác định rủi ro được chấp nhận, quy trình đánh giá việc tuân thủ quy trình, quy định...

Sáng ngày 27/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Khoa học, công nghệ (sửa đổi) và đổi mới sáng tạo. Luật gồm 7 Chương 73 Điều, bỏ 10 điều so với dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội.
CHẤP NHẬN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Luật quy định rõ việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cụ thể, rủi ro trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được chấp nhận theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; bảo đảm có biện pháp quản trị rủi ro phù hợp.
Luật xác định rủi ro trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bao gồm: Rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo; Rủi ro trong thử nghiệm có kiểm soát; Rủi ro trong đầu tư mạo hiểm…
Việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo được quy định như sau:
Tổ chức, cá nhân thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo được loại trừ trách nhiệm hành chính, miễn trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại gây ra cho Nhà nước nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình, quy định trong quá trình triển khai thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo và không có hành vi gian lận, cố ý vi phạm pháp luật, không sử dụng sai mục tiêu, phạm vi kinh phí;

Tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng ngân sách nhà nước, kinh phí hợp pháp khác của đơn vị sự nghiệp công lập, kinh phí của doanh nghiệp nhà nước không phải hoàn trả kinh phí đã sử dụng đúng mục tiêu, phạm vi nếu đã tuân thủ đầy đủ quy định quản lý nhiệm vụ, quy trình thực hiện, nội dung nghiên cứu, biện pháp phòng ngừa rủi ro nhưng kết quả của nhiệm vụ không đạt được mục tiêu đề ra.
Tổ chức, cá nhân phê duyệt và quản lý nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng ngân sách nhà nước, kinh phí hợp pháp khác của đơn vị sự nghiệp công lập hoặc kinh phí của doanh nghiệp nhà nước được loại trừ trách nhiệm hành chính, miễn trách nhiệm dân sự nếu đã tuân thủ đầy đủ quy định, quy trình về phê duyệt, quản lý nhiệm vụ và không có hành vi vi phạm pháp luật nhưng kết quả của nhiệm vụ không đạt được mục tiêu đề ra;
Luật cũng quy định loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự đối với rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này; quy định tiêu chí xác định rủi ro được chấp nhận, quy trình đánh giá việc tuân thủ quy trình, quy định trong phê duyệt, quản lý, thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.
THỜI GIAN CHO PHÉP THỬ NGHIỆM CÓ KIỂM SOÁT
Luật cũng quy định cụ thể các yêu cầu chung đối với thử nghiệm có kiểm soát công nghệ, quy trình, giải pháp, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới. Theo đó, thử nghiệm có kiểm soát là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức, doanh nghiệp triển khai thử nghiệm đối với công nghệ, quy trình, giải pháp, sản phẩm, dịch vụ hoặc mô hình kinh doanh mới mà pháp luật chưa có quy định hoặc khác với quy định của pháp luật hiện hành, trong điều kiện thực tế có giới hạn về phạm vi, thời gian, không gian.
Việc cho phép thử nghiệm có kiểm soát phải bảo đảm các nguyên tắc: công khai, minh bạch về tiêu chí, điều kiện, quy trình đánh giá lựa chọn; Bình đẳng giữa các tổ chức, doanh nghiệp trong việc đề xuất, đăng ký và thực hiện quyền, trách nhiệm trong quá trình thử nghiệm có kiểm soát.
Cùng với đó đáp ứng các yêu cầu về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, bảo vệ quyền lợi người tham gia thử nghiệm; lựa chọn phạm vi, thời gian, không gian để hạn chế nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế- xã hội.

Theo luật này, thời hạn cho phép thử nghiệm có kiểm soát được xác định trên cơ sở đề xuất của tổ chức, doanh nghiệp nhưng không quá 3 năm và có thể được gia hạn 01 lần không quá 03 năm.
Việc thực hiện thử nghiệm có kiểm soát phải được sơ kết, tổng kết để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc tiếp tục áp dụng thử nghiệm có kiểm soát hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng chính thức.
Căn cứ vào yêu cầu quản lý thực tiễn của từng ngành, lĩnh vực, Chính phủ được ban hành văn bản quy định chi tiết khoản 3 Điều này và các nội dung cần thiết để xử lý các vấn đề phát sinh khác với luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.
Đáng chú ý, luật cũng miễn, loại trừ trách nhiệm trong hoạt động thử nghiệm có kiểm soát. Trong quá trình thử nghiệm có kiểm soát, trường hợp xảy ra thiệt hại, rủi ro, việc miễn, loại trừ trách nhiệm trong hoạt động thử nghiệm có kiểm soát được thực hiện theo nguyên tắc cụ thể.
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cho phép thử nghiệm có kiểm soát; tổ chức, cá nhân trực tiếp, tham gia thẩm định, cấp phép, đánh giá thử nghiệm có kiểm soát được miễn, loại trừ các trách nhiệm khi đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về thử nghiệm có kiểm soát tại Luật này và quy định của pháp luật về thử nghiệm có kiểm soát, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung, trừ trường hợp đã biết hoặc buộc phải biết về nguy cơ rủi ro đối với quá trình thử nghiệm có kiểm soát nhưng không áp dụng đầy đủ biện pháp phù hợp để ngăn ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra.
Các trách nhiệm được miễn, loại trừ bao gồm: Miễn trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại gây ra cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác trong quá trình thẩm định, cấp phép, kiểm soát, đánh giá thử nghiệm có kiểm soát; Loại trừ trách nhiệm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự đối với rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Thứ hai, tổ chức, doanh nghiệp được cấp phép tiến hành thử nghiệm có kiểm soát, cá nhân thực hiện thử nghiệm có kiểm soát được miễn, loại trừ trách nhiệm khi đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp đã biết hoặc buộc phải biết về nguy cơ rủi ro nhưng không kịp thời thông tin, báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nguy cơ rủi ro phát sinh trong quá trình thử nghiệm có kiểm soát và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra.
Các trách nhiệm được miễn, loại trừ bao gồm: Miễn trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại gây ra cho Nhà nước, nhưng phải chịu trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại gây ra cho tổ chức, cá nhân khác trong quá trình thử nghiệm có kiểm soát; Loại trừ trách nhiệm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự đối với rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Luật cũng quy định về bảo vệ người tham gia thử nghiệm có kiểm soát.
Để thể chế hóa nội dung cơ chế đặc biệt trong giải mã công nghệ, mua bí quyết công nghệ trong Nghị quyết số 57-NQ/TW, Luật đã quy định tổ chức chủ trì nhiệm vụ Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo được áp dụng cơ chế đặc biệt trong việc chỉ định và chi trả cho chuyên gia, mua trực tiếp theo giá thỏa thuận công nghệ, sản phẩm để giải mã công nghệ trong phát triển công nghệ chiến lược, mua bí quyết công nghệ.
Về hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ chiến lược, Luật đã chỉnh lý nội dung Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ, đầu tư, hợp tác và giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp để phát triển công nghệ chiến lược. Theo đó, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ chuyên biệt trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao để thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu dùng chung; Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị cho cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu dùng chung để thu hút doanh nghiệp cùng tham gia khai thác, vận hành.
Về cơ chế tài chính, quản lý tài sản và kết quả nghiên cứu trong hoạt động Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, tiếp thu ý kiến đại biểu và thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW, Luật theo hướng chuyển mạnh từ “quản lý chi tiêu” sang “quản trị theo kết quả”.
Theo đó, Khoán chi theo kết quả cuối cùng, tăng tính linh hoạt và tự chủ; Giao quyền sở hữu tài sản và kết quả nghiên cứu cho tổ chức chủ trì ngay khi hình thành, không hoàn trả ngân sách, không ghi tăng vốn nhà nước.
Thương mại hóa kết quả nghiên cứu linh hoạt, lợi nhuận được tái đầu tư hoặc dùng để khuyến khích sáng tạo; Phân bổ theo hiệu quả đầu ra; Thiết lập hệ thống quỹ tài chính đồng bộ, chấp nhận rủi ro có kiểm soát, hỗ trợ linh hoạt cho các hoạt động đổi mới sáng tạo.