12:55 12/11/2020

Xây tổ đón "đại bàng", Việt Nam còn thiếu những gì?

An Huy

Tờ báo Nhật Bản phân tích những hạn chế của Việt Nam khi đón làn sóng đầu tư nước ngoài trong ngành sản xuất

Một công nhân Việt Nam đang sản xuất xe đạp Modmo để xuất khẩu sang châu Âu - Ảnh: Modmo/Nikkei.
Một công nhân Việt Nam đang sản xuất xe đạp Modmo để xuất khẩu sang châu Âu - Ảnh: Modmo/Nikkei.

Cách đây 3 năm, Jack O’Sullivan tìm đến Việt Nam để sản xuất xe đạp điện cao cấp, nhưng hết nhà máy này đến nhà máy khác nói rằng họ không làm được những linh kiện mà ông cần. Vì vậy, O’Sullivan phải tìm cách để các nhà máy Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của ông.

Vị doanh nhân người Ireland bắt đầu đưa nhân viên từ Modmo - công ty xuất khẩu xe đạp mà ông thành lập vào năm 2017 - tới làm việc cùng các nhà cung cấp tại Việt Nam. Hiện nay, Modmo sử dụng khoảng 50% linh kiện sản xuất tại Việt Nam, một tỷ lệ mà ông hy vọng sẽ tăng lên để thay thế cho những linh kiện có giá cao hơn nhập từ Trung Quốc và Đài Loan.

"Chúng tôi vẫn đang cố gắng để đạt được mục tiêu đó", ông O’Sullivan nói với tờ báo Nhật Bản Nikkei.

"XÂY TỔ ĐÓN ĐẠI BÀNG"

Và Nikkei cho rằng Việt Nam cũng đang phấn đấu vì mục tiêu tương tự. Trong bài báo có tựa đề "Global manufacturers are flocking to Vietnam. Is it ready?" (tạm dịch: "Các nhà sản xuất toàn cầu đang đổ tới Việt Nam. Liệu Việt Nam đã sẵn sàng?"), tờ báo Nhật Bản này đã phân tích những hạn chế của Việt Nam khi đón làn sóng đầu tư nước ngoài trong ngành sản xuất.

Xu hướng các nhà sản xuất nước ngoài tới Việt Nam mở nhà máy xuất hiện từ sau năm 2007, khi các nhà máy dệt may và da giày bắt đầu dịch chuyển khỏi Trung Quốc do chi phí sản xuất ở nước này gia tăng. Hiện nay, Việt Nam đang được kỳ vọng sẽ trở thành một trung tâm lớn cho hoạt động sản xuất công nghệ cao, trong bối cảnh sức ép của Mỹ đối với Trung Quốc dẫn tới sự điều chỉnh chuỗi cung ứng của các công ty sản xuất máy tính, smartphone và thiết bị viễn thông.

Riêng hãng điện tử Hàn Quốc Samsung hiện đã đóng góp 1/4 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tập đoàn công nghệ Mỹ Intel cũng chọn Việt Nam để đặt nhà máy sản xuất con chip lớn nhất thế giới của hãng.

Đối với các công ty sản xuất toàn cầu thuộc mọi lĩnh vực, sự phụ thuộc thái quá vào Trung Quốc đã trở thành một rủi ro lớn kể từ khi nổ ra cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19 gây gián đoạn chuỗi cung ứng, và chi phí ở Trung Quốc gia tăng. Xu hướng dịch chuyển khỏi Trung Quốc của các nhà máy đã giúp đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành sản xuất Việt Nam. Tháng 2 năm nay, thời điểm trước khi Covid-19 hoành hành mạnh, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 21% so với cùng kỳ năm trước.

Một phần nhờ dự án đầu tư trong năm nay của những doanh nghiệp nước ngoài như hãng điện tử Hàn QUốc LG và nhà sản xuất băng keo Đức Tesa, Việt Nam được dự báo sẽ trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng tốt nhất thế giới trong 2020.

Tuy nhiên, theo Nikkei, làn sóng sản xuất đổ tới đang làm gia tăng sức ép lên lực lượng lao động và các nhà cung cấp ở Việt Nam, cũng như việc cấp đất cho các nhà máy. Việt Nam muốn nhờ làn sóng này để đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhưng cũng có nguy cơ bị ngợp, bài báo của Nikkei nhận xét.

Tác động của nguồn cầu mới trong ngành sản xuất ở Việt Nam đang được thể hiện rõ rệt, từ những con tàu container chở đầy hàng cho tới những nhà máy hoạt động hết công suất. Công ty bất động sản Savills cho biết tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp tăng mạnh trong hai năm qua, hiện đạt bình quân 74% trên toàn quốc. Tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp gần thành phố lớn thậm chí còn cao hơn, như 99% ở Bình Dương và 94% ở Đồng Nai, hai địa phương giáp Tp.HCM.

Trao đổi với Nikkei, ông Nguyễn Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Thông tin thương mại thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), nói rằng "những chú đại bàng" ngành sản xuất đang đổ tới Việt Nam và Việt Nam cần chuẩn bị để đón tiếp.

"Cần phải xây tổ để đón đại bàng", ông Bình nói.

TIỀM NĂNG LỚN, THÁCH THỨC CŨNG NHIỀU

Phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rót vào Việt Nam thời gian gần đây là các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ, như sản xuất tai nghe cho Apple hay màn hình tinh thể lỏng cho Sharp. Điều này phù hợp với mục tiêu của Việt Nam là đi lên trong chuỗi cung ứng và dịch chuyển tới những công việc có kỹ năng cao hơn. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thiếu hụt khả năng tạo ra những sản phẩm tiên tiến như xe đạp của Modmo, loại xe được trang bị mô-tơ điện, màn hình cảm ứng, kết nối Bluetooth và có mức giá 2.400 USD.

Navigos Group, công ty quản lý trang việc làm lớn nhất Việt Nam, nói rằng 71% các công ty công nghệ phàn nàn rằng tình trạng thiếu nhân lực công nghệ thông tin (IT) là thách thức lớn nhất của họ. Tỷ lệ này vượt xa những doanh nghiệp xem thách thức lớn nhất nằm ở những vấn đề như tiền lương, pháp lý… trong cuộc khảo sát mà Navigos công bố kết quả hồi tháng 4. Tương tự, các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề cũng cho biết họ gặp khó khăn về tìm nhân sự cho các vị trí quản lý cấp trung.

Mức độ sẵn có của "lao động trình độ cao ở Việt Nam rõ ràng không đủ đáp ứng nhu cầu", Thịnh Nguyễn - CEO công ty tư vấn phần mềm Zien Solutions - nhận xét.

Một thách thức nữa là tình trạng thiếu các nhà cung cấp tại chỗ, buộc Việt Nam phải nhập nguyên vật liệu từ Trung Quốc. Theo một nghiên cứu về nội địa hóa chuỗi cung ứng mà Đại học Harvard công bố hồi tháng 3, tính bình quân, Việt Nam đóng góp 55% giá trị của một sản phẩm trước khi sản phẩm đó được xuất khẩu - mức thấp nhất trong số 8 nước châu Á được khảo sát.

Để đáp ứng nhu cầu nội địa hóa, các nhà cung cấp Việt Nam đang tăng cường hợp tác với đối tác nước ngoài, đẩy mạnh các chương trình đào tạo và mở nhà máy mới. Những nỗ lực này đẩy giá đất tăng nhanh hơn.

Tuy vậy, chuyên gia kinh tế trưởng Michael Kokalari của VinaCapital không cho rằng các nhà máy và nhà kho của Việt Nam đã gần hết công suất.

"Có thể đã hết công suất nếu bạn chỉ chú ý tới vấn đề chi phí", ông Kokalari nói. "Còn nếu bạn sản xuất hàng điện tử và các sản phẩm giá trị cao khác, thì công suất vẫn còn".

Trong một báo cáo vào năm 2019, VinaCapital ước tính rằng Việt Nam có đủ đất công nghiệp cho các công ty nước ngoài tăng gấp đôi vốn đầu tư vào thời điểm đó. Tỷ trọng 20% của ngành sản xuất trong nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức 30% tại các nền kinh tế "con hổ" khác của châu Á, nên dư địa để phát triển vẫn còn nhiều - báo cáo viết.

Để đáp ứng nhu cầu, Việt Nam đang xây dựng thêm nhiều khu công nghiệp, với ít nhất 17 khu sẽ mở cửa trong vài năm tới - theo số liệu của Savills. Việc đào tạo công nhân và nhà cung cấp cũng cần được đẩy mạnh, theo các doanh nghiệp.

Ông O’Sullivan bày tỏ hy vọng có thể có được nguồn cung cấp nhiều linh kiện xe đạp hơn từ Việt Nam, khi chuyên môn của các nhà cung cấp địa phương đi lên.

Mức độ nội địa hóa của chuỗi cung ứng tại Việt Nam "đang thấp hơn nhiều so với mức lẽ ra phải có, vì họ có tiềm năng rất lớn", ông nhấn mạnh.