Xuất khẩu nông lâm thủy sản thiết lập kỷ lục mới
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, xuất khẩu nông lâm thủy sản trong tháng 11/2021 ước đem về 4,2 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành hàng 11 tháng lên 43,48 tỷ USD, đã vượt qua cả năm 2020 và lập kỷ lục cao nhất từ trước tới nay…
Với kim ngạch tháng 11 đạt 4,2 tỷ USD cho thấy xuất khẩu nông lâm thủy sản đang hồi phục mạnh mẽ sau những tháng giãn cách xã hội, tăng 8,9% so với tháng 11/2020 và tăng 5,8% so với tháng 10/2021.
NHIỀU NHÓM HÀNG CHÍNH TĂNG TRƯỞNG CAO
Tính chung 11 tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản đạt gần 82,67 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 43,48 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu ước khoảng 39,18 tỷ USD, tăng 39,0% so với cùng kỳ năm trước. Đến thời điểm này, ngành nông nghiệp xuất siêu gần 4,3 tỷ USD, giảm 56,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhìn tổng quan về xuất khẩu của 11 tháng, kim ngạch nhóm nông sản chính ước đạt trên 19,3 tỷ USD, tăng 13,7%; lâm sản chính đạt khoảng 14,3 tỷ USD, tăng 20,9%; thủy sản đạt trên 7,9 tỷ USD, tăng 3,5%; chăn nuôi ước đạt 393 triệu USD, tăng 4,0%; nhóm đầu vào sản xuất trên 1,5 tỷ USD, tăng 25,9%.
Nhiều sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng gồm: cà phê, cao su, gạo, nhóm hàng rau quả, hồ tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, sản phẩm chăn nuôi; sản phẩm gỗ; mây, tre, cói thảm; quế,… Trong đó, cao su, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu.
Cụ thể: cao su tăng 11,7% về khối lượng, tăng 40,5% giá trị; gạo tăng 0,8% về khối lượng, tăng 7,3% giá trị), hạt điều tăng 14,3% về khối lượng, tăng 14,6% về giá trị: sắn và sản phẩm từ sắn tăng 7,9%, tăng 23,0%.
Riêng hồ tiêu dù khối lượng xuất khẩu giảm (đạt 247 nghìn tấn, giảm 6,7%) nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 54,4% nên giá trị xuất khẩu vẫn tăng 44,0%. Với ngành hàng cà phê, khối lượng xuất khẩu giảm 4,4% nhưng giá trị kim ngạch vẫn tăng 5,9%.
Những mặt hàng khác tăng giá trị như: Rau quả tăng 8,6%; sản phẩm chăn nuôi tăng 4,0%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 20,0%; mây, tre, cói thảm tăng 42,2%; quế tăng 14,7%.
Riêng mặt hàng chè giảm cả khối lượng (giảm 6,4%) và giá trị xuất khẩu (giảm 2,3%), dù giá xuất khẩu bình quân tăng.
Giá xuất khẩu bình quân 11 tháng nhiều mặt hàng tăng: Cao su đạt 1.670,3 USD/tấn (tăng 25,8%); chè đạt 1.686,9 USD/tấn (tăng 4,4%), cà phê đạt 1.931,4 USD/tấn (tăng 10,7%), gạo đạt 528,1 USD/tấn (tăng 6,5%), hồ tiêu đạt 3.519,6 USD/tấn (tăng 54,4%), sắn đạt 258,3 USD/tấn (tăng 13,5%), giá XK hạt điều đạt 6.289,8 USD/tấn (tăng 0,2%).
Về thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 11 tháng của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 43,1% thị phần; châu Mỹ chiếm 29,6%; châu Âu chiếm 11,5%; châu Phi chiếm 1,9%; châu Đại Dương chiếm 1,6% thị phần.
Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ đạt trên 11,9 tỷ USD (chiếm 27,5% thị phần), trong đó kim ngạch nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 67,2% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.
Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc gần 8,4 tỷ USD (chiếm 19,2% thị phần) với kim ngạch xuất khẩu nhóm rau quả chiếm tới 23,3% tỷ trọng.
Đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt gần 3 tỷ USD (chiếm 6,9%) và xuất khẩu nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất (chiếm 43,% giá trị).
Ở vị trí thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 1,9 tỷ USD (chiếm 4,4%) và nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất, chiếm 42,5% giá trị ở thị trường này.
TIẾP TỤC MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản 11 tháng ước khoảng 39,2 tỷ USD, tăng 39,0% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 24,9 tỷ USD, tăng 54,2%; nhóm sản phẩm chăn nuôi đạt trên 3,1 tỷ USD, giảm 1,8%; nhóm hàng thủy sản ước khoảng 1,8 tỷ USD, tăng 11,0%; nhóm lâm sản chính khoảng 2,8 tỷ USD, tăng 260,5%; nhóm đầu vào sản xuất trên 6,6 tỷ USD, tăng 33,6%.
Đề cập về công tác xúc tiến thương mại nông lâm thủy sản trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của 2 Tổ công tác (phía Nam và phía Bắc) để chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, hợp tác xã,… khẩn trương triển khai các giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong lưu thông, sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Thường xuyên tổ chức/phối hợp tổ chức và tham gia các diễn đàn, hội nghị trực tuyến kết nối cung cầu, xúc tiến tiêu thụ nông sản, phát triển ngành hàng.
Đối với xúc tiến thương mại trên thị trường thế giới, sẽ tiếp tục thúc đẩy mở cửa thị trường nông sản với các nước Peru, Úc, Braxin, Trung Quốc, Hoa Kỳ, ASEAN, Nga, Séc…
Tới đây, Bộ sẽ xây dựng kế hoạch triển khai các nhiệm vụ thực hiện Đề án “Nâng cao năng lực về phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 2/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ).
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là hướng dẫn các đơn vị, doanh nghiệp thiện hồ sơ và tiếp tục giới thiệu doanh nghiệp xuất khẩu sang Trung Quốc. Cập nhật 63 thông báo biện pháp SPS của Ban thư ký WTO, trong đó có 48 Thông báo lấy ý kiến Thành viên WTO, 15 quy định liên quan đến an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật có hiệu lực; xử lý 04 cảnh báo của EU; hoàn thành hồ sơ gửi Ban thư ký WTO 01 dự thảo thông báo của Việt Nam.
Thời gian tới cũng sẽ xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận hợp tác với Hoa kỳ về kiểm soát khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp; dự thảo thư phản đối gửi DOC, USTR và Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ về việc điều tra áp thuế giống bán phá giá mật ong; tham gia đàm phán trợ cấp thủy sản trong khuôn khổ WTO.