3 đột phá chiến lược để Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hoàn thành sứ mệnh mới
Đề cập đến định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu tập trung cho 3 khâu đột phá chiến lược, gồm thể chế, nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng số…
Ngày 9/7, tại TP. Hồ Chí Minh diễn ra Hội nghị Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 và Kết luận số 27-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
CẦN NGHIÊN CỨU TIỀM NĂNG NỔI TRỘI CỦA VÙNG
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính, nhấn mạnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm 6 tỉnh, thành phố của vùng Đông Nam Bộ là TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và 2 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long là Long An và Tiền Giang.
Dân số toàn vùng gần 22 triệu người, chiếm 9,2% diện tích, 35% GRDP, 46,1% tổng thu ngân sách, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Vì vậy, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Với mục tiêu huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 53 để phát triển nhanh, ổn định và bền vững, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt giáo dục - đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế vào loại hàng đầu cả nước.
Từ đó, bảo đảm ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh vững chắc, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của khu vực phía Nam và cả nước, đây cũng là địa bàn cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực.
Thủ tướng nhấn mạnh, thực tiễn đã khẳng định Nghị quyết 53 và Kết luận 27 là đúng hướng, thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố niềm tin với Đảng và Nhà nước.
Đồng thời đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân tích, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và xác định rõ nguyên nhân của kết quả đạt được, đặc biệt là nguyên nhân chủ quan, “cái gì là tự thân để phát triển và cái gì là hỗ trợ của Trung ương và rút ra bài học kinh nghiệm”; tập trung phân tích bối cảnh quốc tế, trong nước, đặc biệt là những yếu tố tác động của vùng trong tình hình hiện nay.
Từ đó đưa ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, quan điểm chỉ đạo để phát triển vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và nghiên cứu tiềm năng, cơ hội nổi trội của vùng so với các vùng khác.
Trên cơ sở đó nhận diện một cách thực chất để có giải pháp phù hợp; đánh giá đúng và trúng để có giải pháp phù hợp, tạo ra đột phá, tầm nhìn chiến lược đối với vùng.
Thủ tướng yêu cầu trong tình hình, bối cảnh mới, căn cứ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và đòi hỏi của thực tiễn, chúng ta cần xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết mới về phát triển vùng.
THÀNH TỰU 17 NĂM NHÌN LẠI, ĐẶT LÊN VAI SỨ MỆNH MỚI
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, cho hay vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là đầu mối giao thương, kết nối trong nước và quốc tế thông qua hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, đặc biệt là tuyến đường bộ xuyên Á và tuyến đường biển nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Đây cũng là đầu tàu kinh tế, trung tâm công nghiệp, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tài chính, ngân hàng, logistics, văn hóa, y tế, giáo dục của cả nước... với hạt nhân là đô thị đặc biệt TP. Hồ Chí Minh, trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, động lực lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước và nhất là khu vực phía Nam.
Như vậy, sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận số 27, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo tích cực của các cấp, các ngành ở trung ương và sự nỗ lực quyết tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương trong vùng, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng có những chuyển biến hết sức tích cực.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ rõ qua đánh giá sơ bộ, cùng đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Cụ thể, một là, các nhiệm vụ, giải pháp, chỉ tiêu đề ra của Nghị quyết số 53-NQ/TW và Kết luận số 27-KL/TW được các bộ ngành và cơ quan trong Vùng triển khai thực hiện tích cực, góp phần đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước.
Hai là, tiếp tục là cực tăng trưởng với quy mô GRDP chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP cả nước, vượt mục tiêu đặt ra.
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng tăng, tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ, năng suất lao động đạt mức cao nhất cả nước.
Ba là, hình thành trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước, đóng góp tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tạo việc làm, thu ngân sách nhà nước. Kinh tế tư nhân của vùng phát triển năng động, mạnh mẽ. Đồng thời là địa bàn thu hút FDI, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất cả nước.
Bốn là, đang dần trở thành “bệ đỡ” cho phát triển vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long. Là cửa ngõ giao thương của khu vực phía Nam và cả nước.
Năm là, diện mạo đô thị ngày càng đổi mới, hiện đại; tốc độ đô thị hóa nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong vùng. Hệ thống đô thị được phát triển và phân bố hợp lý tạo sự liên kết mang tính hệ thống giữa các đô thị trong vùng.
Sáu là, lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước phát triển khá và đạt trình độ cao so với mặt bằng chung của cả nước.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo cao ở mức hàng đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên. Thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước. Lĩnh vực y tế được cải thiện, nhất là y tế chuyên sâu có những thành tựu ngang tầm khu vực và thế giới.
Bảy là, hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt được một số thành tựu nổi bật. TP. Hồ Chí Minh dần trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ thông tin của vùng và cả nước.
Tám là, công tác cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh có bước chuyển biến tích cực theo hướng phục vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Chín là, công tác xây dựng Đảng được quan tâm. Quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.
KẾT CẤU HẠ TẦNG VÙNG, LIÊN VÙNG THIẾU THỐN, CHƯA THEO KỊP SỰ PHÁT TRIỂN
Dù đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua nhưng trong quá trình phát triển, tuy nhiên, Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư cũng thẳng thắn chỉ rõ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, nhất là trong đại dịch Covid-19 vừa qua.
Theo đó, nhiều chỉ tiêu đặt ra chưa đạt được, nhất là các chỉ tiêu quan trọng như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng đóng góp vào GDP của cả nước, tốc độ tăng năng suất lao động, thu ngân sách nhà nước...
Cùng với đó, công nghiệp phát triển nhanh nhưng thiếu tính bền vững và đồng bộ; chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý; các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
"Kết cấu hạ tầng vùng, liên vùng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, tính kết nối và đồng bộ còn yếu. Hệ thống giao thông quá tải, tắc nghẽn. Tình trạng ngập úng thường xuyên. Ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng.
Một số công trình trọng điểm như sân bay Long Thành (giai đoạn 1), di dời cảng trong khu vực TP. Hồ Chí Minh, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có... chậm tiến độ".
Đặc biệt, hạ tầng xã hội chưa theo kịp sự phát triển. Tình trạng quá tải ở hầu hết các trường học, cơ sở đào tạo, dạy nghề công lập, các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng lớn. Thiếu nhà ở và các tiện nghi, tiện ích cho công nhân tại các khu công nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng chưa phát huy được tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Vùng.
Đáng lưu ý, "liên kết giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, còn hình thức, liên kết nội vùng và liên vùng chưa có tính chiến lược, lâu dài để nâng cao năng lực cạnh tranh vùng", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ rõ bất cập.
Về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nguy cơ mất ổn định. Tội phạm băng nhóm có tổ chức, sử dụng công nghệ cao có yếu tố nước ngoài có xu hướng gia tăng. Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Phân tích rõ nguyên nhân gây nên những hạn chế kể trên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, cho rằng bên cạnh các nguyên nhân khách quan như bối cảnh trong nước, quốc tế có nhiều yếu tố bất lợi; một số địa phương có xuất phát điểm thấp; tỷ lệ tăng dân số cơ học nhanh thì tồn tại hạn chế trong phát triển của vùng thời gian qua còn đến chủ yếu từ các nguyên nhân chủ quan.
"Nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng còn chưa cao. Công tác chỉ đạo điều hành giữa các cấp, các ngành chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ để xử lý các vấn đề của vùng", Bộ trưởng cho hay.
Thêm vào đó, mục tiêu đề ra trong Nghị quyết khá cao trong khi nguồn lực còn hạn chế và trong quá trình thực hiện chưa dự báo chính xác được những tác động của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài để có các giải pháp ứng phó, khắc phục kịp thời, hiệu quả.
Cơ chế, chính sách liên kết vùng chưa được hình thành đồng bộ, đầy đủ nhất là trong huy động nguồn lực cho các dự án quy mô vùng. Các quy định về hợp tác, liên kết vùng chưa rõ ràng, chưa có chính sách khuyến khích sự chủ động, năng động, sáng tạo của các địa phương, doanh nghiệp trong thực hiện hợp tác liên kết vùng.
Một số quy định pháp luật về đầu tư, quy hoạch, đất đai, xây dựng, kinh doanh bất động sản còn bất cập, chưa đồng bộ. Phân cấp, phân quyền chưa thực sự gắn với năng lực và điều kiện thực tiễn của từng địa phương.
Quy hoạch vùng và quy hoạch các địa phương trong vùng chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu sự liên kết, thống nhất. Tổ chức thực hiện quy hoạch còn nhiều hạn chế và bất cập.
Đặc biệt, thiếu cơ chế chính sách để huy động hiệu quả nguồn lực đầu tư nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, quy mô lớn của vùng. Hầu hết các địa phương trong vùng tự cân đối được ngân sách nhà nước nên đầu tư từ ngân sách trung ương cho các công trình quan trọng, quy mô lớn còn thấp do đó chưa tạo động lực đột phá.
Đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thích đáng; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ cao, công nghệ mới còn hạn chế.
Đề cập đến định hướng thời gian tới, Thủ tướng cho rằng, cần tập trung cho 3 khâu đột phá chiến lược, gồm xây dựng và hoàn thiện thể chế; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng số…
Theo đó, cách thức tổ chức thực hiện liên kết cần chặt chẽ, hiệu quả hơn, cần một cơ chế điều phối, "nhạc trưởng" cho liên kết vùng phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn, nâng cao tính tự lực, tự cường của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị…
Đồng thời, cần có các cơ chế, chính sách hiệu quả để huy động và sử dụng các nguồn lực, lấy đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn lực trong xã hội.
Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ, ngành tích cực, chủ động phối hợp, xử lý các vấn đề đặt ra với các địa phương trong vùng, không để các địa phương phải "chạy lên chạy xuống" nhiều lần mà không giải quyết được vấn đề. Thủ tướng cho biết vừa qua đã chỉ đạo và các bộ, ngành, địa phương đã phối hợp tích cực, chặt chẽ, hiệu quả để giải quyết các vướng mắc của nhà đầu tư, thúc đẩy nhiều dự án đầu tư lớn.