Từ ngày 1/9/2025, các chủ dự án đầu tư, cơ sở xả nước thải công nghiệp có trách nhiệm bảo đảm giá trị các thông số ô nhiễm không được vượt quá giá trị giới hạn cho phép theo quy định mới của quy chuẩn quốc gia về nước thải công nghiệp- QCVN 40:2025/BTNMT...
Ảnh minh họa
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp (QCVN 40:2025/BTNMT) vừa được ban hành đã quy định giá trị giới hạn cho phép của các thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp khi xả thải ra nguồn nước tiếp nhận.
Quy chuẩn này không áp dụng đối với nước khai thác thải từ các công trình dầu khí trên biển; nước thải chăn nuôi; nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị, khu dân cư tập trung.
Theo quy định, đối tượng áp dụng của quy chuẩn là các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động xả thải nước thải công nghiệp ra nguồn nước tiếp nhận.
Cũng theo Thông tư, cơ sở đã đi vào vận hành, dự án đầu tư đã có quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ đầy đủ, hợp lệ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường hoặc đăng ký môi trường trước ngày 1/9 được tiếp tục áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải theo loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tương ứng và quy định của chính quyền địa phương (bao gồm cả quy chuẩn kỹ thuật địa phương về nước thải) cho đến hết ngày 31/12/2031.
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định liên quan đến việc thay đổi chức năng của nguồn nước tiếp nhận thì các đối tượng trên thực hiện theo lộ trình do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định khi ban hành các quy định.
Đặc biệt, thông số ô nhiễm và giá trị giới hạn cho phép của thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp của dự án đầu tư, cơ sở xả nước thải phải được nêu trong quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường, văn bản đăng ký môi trường.
Dự án đầu tư, cơ sở có công nghệ, thiết bị có phát sinh thông số ô nhiễm đặc trưng mới chưa được quy định tại Quy chuẩn này thì áp dụng giá trị giới hạn cho phép của thông số ô nhiễm đặc trưng đó theo tiêu chuẩn quốc gia về bảo vệ môi trường của một trong các quốc gia thuộc Nhóm các quốc gia công nghiệp phát triển (G7).
Riêng đối với một số trường hợp đặc thù như nước làm mát chỉ phải quan trắc nhiệt độ; các thông số ô nhiễm Chloroform, Clo (trong trường hợp có sử dụng Clo hoặc hóa chất khử trùng gốc Clo).
Nước thải nuôi trồng thủy sản chỉ phải kiểm soát các thông số ô nhiễm: COD (hoặc TOC), BOD5, TSS, pH, tổng coliform, tổng Nitơ, tổng Phốt pho. Các thông số ô nhiễm: pH, tổng coliform, tổng Nitơ, tổng Phốt pho được áp dụng giá trị giới hạn cho phép quy định tại Quy chuẩn; các thông số ô nhiễm: BOD5, COD (hoặc TOC), TSS được áp dụng giá trị giới hạn cho phép theo lưu lượng xả thải F ≤ 2 000 m3/ngày quy định tại Quy chuẩn, không phân biệt lưu lượng xả thải.
Trường hợp chất lượng nước đầu vào phục vụ nuôi trồng thủy sản có giá trị thông số ô nhiễm vượt quá giá trị quy định của Quy chuẩn thì giá trị thông số ô nhiễm trong nước thải xả ra nguồn nước tiếp nhận không được vượt quá giá trị đầu vào tại công trình khai thác nước phục vụ nuôi trồng thủy sản. Việc lấy mẫu để đánh giá chất lượng nước đầu vào và nước thải xả ra nguồn nước tiếp nhận được thực hiện cùng thời điểm…
Cũng theo quy chuẩn, nước thải sinh hoạt, nước thải chăn nuôi khi nhập cùng nước thải công nghiệp thì được quản lý như nước thải công nghiệp theo quy định tại Quy chuẩn. Còn nếu nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý riêng với nước thải công nghiệp thì được quản lý theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị, khu dân cư tập trung.
Nước thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong đô thị, khu dân cư tập trung khi đấu nối vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị, khu dân cư tập trung phải đáp ứng quy định của chủ đầu tư, quản lý, vận hành hệ thống xử lý nước thải đô thị, khu dân cư tập trung hoặc quy định của chính quyền địa phương.
Nước thải của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp khi đấu nối vào hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung phải đáp ứng theo yêu cầu của chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp.
Quy chuẩn nêu rõ chủ dự án đầu tư, cơ sở xả nước thải công nghiệp có trách nhiệm bảo đảm giá trị các thông số ô nhiễm không được vượt quá giá trị giới hạn cho phép quy định của QCVN 40:2025/BTNMT.
Cùng với đó, các chủ dự án đầu tư, cơ sở chịu trách nhiệm xác định thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp theo các căn cứ: Thông tin về loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, hóa chất sử dụng; công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý chất thải và danh mục các thông số ô nhiễm có khả năng phát sinh (được đề xuất trong Hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Hồ sơ đề nghị cấp, cấp điều chỉnh, cấp lại giấy phép môi trường).
Cơ quan có thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường xác định cụ thể các thông số ô nhiễm phải kiểm soát trên căn cứ đề xuất của chủ dự án đầu tư, cơ sở trong hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, hồ sơ đề nghị cấp, cấp điều chỉnh, cấp lại giấy phép môi trường.
Trong trường hợp phát hiện thông số ô nhiễm khác vượt giá trị giới hạn cho phép theo quy chuẩn mới này thì phải kiểm soát bổ sung theo quy định.
Theo thông tư, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát, điều chỉnh quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương đã ban hành về nước thải công nghiệp phù hợp quy định của pháp luật, tình hình phát triển kinh tế- xã hội địa phương và quy chuẩn này.
Sẽ có quy chuẩn khoảng cách an toàn môi trường của cơ sở sản xuất có nguy cơ phát tán bụi, mùi, tiếng ồn
10:03, 02/02/2025
Nhiều hạn chế trong thực thi pháp luật về cấp, thoát nước và xử lý nước thải
17:10, 10/01/2025
Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường
14:48, 23/12/2024
Đọc thêm
Việt Nam cần từ 55- 92 tỷ USD để thích ứng biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030
Trong giai đoạn 2021- 2030, Việt Nam cần khoảng 55- 92 tỷ USD để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ thích ứng biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước chỉ có thể đáp ứng một phần, dự kiến mỗi năm Việt Nam phải huy động thêm từ 2,7 đến hơn 6 tỷ USD từ nguồn vốn ngoài ngân sách...
Yêu cầu công bố sớm, công khai lộ trình chuyển đổi phương tiện giao thông xanh, có chính sách hỗ trợ cụ thể
Phó Thủ tướng yêu cầu Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh tập trung xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động chi tiết, có lộ trình cụ thể, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi phê duyệt. Công bố sớm, công khai lộ trình chuyển đổi sang phương tiện giao thông xanh, kèm theo các chính sách hỗ trợ cụ thể, khả thi để người dân, doanh nghiệp đồng thuận, thực hiện...
Lấp "khoảng trống" nhân lực kỹ năng phát triển xanh, năng lượng tái tạo
Chuyển đổi xanh đang mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam nhưng cũng đặt ra thách thức về nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc “lấp đầy khoảng trống kỹ năng” là một trong những điều kiện tiên quyết để làm chủ công nghệ mới trong sản xuất xanh và năng lượng tái tạo…
Đánh giá rủi ro và mức độ tổn thương do biến đổi khí hậu với các đô thị
Việc đánh giá rủi ro, tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu đối với đô thị là cần thiết để nhận diện các nguy cơ, từ đó xây dựng các giải pháp quy hoạch, quản lý và đầu tư thích hợp. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có các tài liệu, hướng dẫn chuyên biệt để đánh giá tính dễ bị tổn thương và rủi ro do biến đổi khí hậu áp dụng cho khu vực đô thị...
Nâng tầm giá trị cây luồng, xây dựng kinh tế rừng bền vững
Những năm gần đây, cây luồng không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn trở thành “cây thoát nghèo” cho đồng bào dân tộc ở Phú Lệ, vùng miền núi xứ Thanh. Từ cách làm truyền thống dựa vào tự nhiên, người dân nơi đây đang từng bước thay đổi tập quán, áp dụng kỹ thuật thâm canh và hướng tới quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: