18:58 21/11/2024

Áp thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có đường cần được đánh giá toàn diện, phù hợp

Huyền Vy

Đề xuất bổ sung nước giải khát có đường với hàm lượng từ 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất là 10% hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều giữa các Bộ, ngành, các chuyên gia, các nhà khoa học, doanh nghiệp và người tiêu dùng…

Áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát có đường có thể không làm thay đổi hành vi người tiêu dùng.
Áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát có đường có thể không làm thay đổi hành vi người tiêu dùng.

Theo dự kiến, Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.

Một trong những nội dung được bổ sung tại Dự thảo là mở rộng cơ sở tính thuế, trong đó có quy định “bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100 ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt”. Đồng thời, dự thảo đề xuất áp dụng mức thuế suất 10% do đây là mặt hàng mới.

ÁP THUẾ: NHIỀU MỤC TIÊU KHÔNG ĐẠT ĐƯỢC

Liên quan đến quy định này, Bộ Y tế cho rằng mức thuế 10% là chưa đủ để làm thay đổi hành vi tiêu dùng, giảm tỷ lệ thừa cân béo phì và các bệnh không lây nhiễm và đề xuất cần áp mức thuế cao hơn (40%). Theo nghiên cứu được Tổ chức HealthBridge Canada thực hiện thì nếu áp dụng mức thuế nêu trên thì sẽ thu ngân sách được khoảng 17,4 nghìn tỷ đồng.

Trong khi đó, Bộ Tài chính đề nghị vẫn giữ nguyên đề xuất chỉ áp dụng mức thuế suất 10% để khuyến khích doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu loại đồ uống có lượng đường thấp, nâng cao nhận thức, điều chỉnh hành vi người tiêu dùng.

Theo ý kiến của Bộ Tài chính, “việc mở rộng phạm vi để bao trùm đầy đủ cần được nghiên cứu kỹ lưỡng dựa trên bằng chứng, lý lẽ thuyết phục phù hợp với điều kiện Việt Nam”.

Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng cả kỳ vọng tăng doanh thu thuế hay nâng cao nhận thức và điều chỉnh hành vi người tiêu dùng đều không đạt được vì nhiều lý do. Vì vậy, vấn đề này nên cần xem xét lại xem có nên bổ sung mặt hàng này vào dự thảo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hay không.

Bài toán giữa chi phí và lợi ích của đề xuất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường cần được cân nhắc.
Bài toán giữa chi phí và lợi ích của đề xuất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường cần được cân nhắc.

Thứ nhất, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường không làm tăng thu ngân sách như kỳ vọng, đồng thời gây tác động tiêu cực chung đối với toàn nền kinh tế.

Nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) về tác động kinh tế của việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát, đã chỉ ra rằng nếu áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt 10% đối với nước giải khát thì thu ngân sách từ thuế gián thu (thuế tiêu thụ đặc biệt) năm đầu tiên (2026) sẽ tăng khoảng 8.507 tỷ đồng, nhưng thu ngân sách từ thuế trực thu sẽ giảm khoảng 2.152 tỷ đồng.

Từ những năm tiếp theo (tức từ năm 2027 trở đi), thu ngân sách cả từ cả thuế gián thu và thuế trực thu đều sẽ bắt đầu suy giảm với mức -0,495%/năm, tương ứng ước tính giảm khoảng 4.978 tỷ đồng/năm. Điều này dẫn tới giảm giá trị tăng thêm, giảm giá trị sản xuất, giảm lợi nhuận; kéo theo làm giảm tổng nguồn thu ngân sách ở các chu kỳ sau.

Bên cạnh đó, báo cáo đánh giá việc áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt này sẽ không những tác động trực tiếp lên ngành đồ uống, mà còn tác động lan tỏa tới 25 ngành trong nền kinh tế và dẫn đến sụt giảm khoảng 0,448% GDP, tương ứng 42.570 tỷ đồng. Do vậy, CIEM đề xuất chưa áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường.

Nếu áp dụng mức thuế cao hơn (ví dụ 40%) thì tác động đối với các doanh nghiệp trong ngành cũng như các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng nước giải khát sẽ lớn hơn và thu ngân sách cũng sẽ giảm khi doanh thu thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp từ các doanh nghiệp này giảm do lượng tiêu thụ nước giải khát ít hơn trước.

Thứ hai, việc áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát có đường có thể không làm thay đổi hành vi người tiêu dùng và chưa chứng minh được hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ thừa cân, béo phì và các bệnh không lây nhiễm khác.

Việc áp mức thuế suất cao, ví dụ như 40%, đối với nước giải khát có đường sẽ làm giá bán lẻ của sản phẩm này tăng lên một cách đáng kể. Việc tăng giá bán lẻ có thể làm giảm tiêu thụ mặt hàng này, tuy nhiên sẽ không có gì có thể đảm bảo rằng tỷ lệ thừa cân béo phì sẽ giảm, do người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ các loại thực phẩm khác có chứa đường khác mà không bị chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như nước uống đường phố, các đồ uống tự pha chế,…

Người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ các loại thực phẩm khác có chứa đường như nước uống đường phố, các đồ uống tự pha chế.
Người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ các loại thực phẩm khác có chứa đường như nước uống đường phố, các đồ uống tự pha chế.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế cũng đã chỉ ra nhiều nguyên nhân gây ra bệnh thừa cân, béo phì như thiếu cân bằng dinh dưỡng, tiêu thụ nhiều thực phẩm có hàm lượng calorie cao, bệnh di truyền, và thiếu vận động thể chất… Theo khảo sát của Nielsen Việt Nam về thành phần dinh dưỡng của thực phầm, lượng calo trung bình cung cấp từ nước giải khát có đường (44 kcal/100ml) thấp hơn nhiều so với các thực phẩm phổ biến khác, đặc biệt là các thực phẩm có chứa đường khác như sữa, bánh, kẹo...

NGUY CƠ GIA TĂNG LẠM PHÁT

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một số quốc gia đánh thuế đồ uống có đường có thể đã ghi nhận tỷ lệ tiêu thụ giảm, nhưng tỷ lệ thừa cân béo phì vẫn tiếp tục gia tăng. Cụ thể: Philippines áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường từ năm 2018, nhưng tỷ lệ thừa cân béo phì đã tăng từ 31,1% năm 2015 lên lên 37,2% vào năm 2019 và 38,6% trong giai đoạn 2021-2022. Tương tự, Thái Lan áp dụng thuế tiêu thụ đối với đồ uống có đường từ năm 2017, song tỷ lệ thừa cân béo phì vẫn tăng từ 28,7% năm 2014 lên 33,2% vào năm 2019.

Ấn Độ bắt đầu áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường từ năm 2017. Tỷ lệ thừa cân béo phì ở nữ giới vào năm 2015-2016 là 20,6% đã tăng lên 24% vào năm 2019-2021; tỷ lệ thừa cân béo phì nam giới tăng từ 18,9% vào 2015-2016 lên 22,9% trong giai đoạn 2019-2021; tỷ lệ trẻ em thừa cân tăng từ 2,1 đến 3,4%.

Mexico bắt đầu áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường từ năm 2012. Trong hai năm đầu mức độ tiêu thụ đồ uống có đường có giảm, tuy nhiên tỷ lệ thừa cân béo phì vẫn tiếp tục tăng. Cụ thể, tỷ lệ béo phì ở nam giới đã tăng từ 26,8% năm 2012 lên 31,8% năm 2021; tỷ lệ béo phì ở nữ giới tăng từ 37,5% năm 2012 lên 41,1% năm 2021.

Chilê áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường từ năm 2014. Một năm sau khi áp thuế, mặc dù lượng tiêu thụ nước giải khát chịu thuế giảm 22% nhưng không có thay đổi về tổng lượng tiêu thụ nước giải khát. Trong khi đó, tỷ lệ thừa cân béo phì tại nước này vẫn gia tăng liên tục từ 19,2% vào năm 2014 lên 30,3% năm 2017 đối với nam giới và từ 30,7% lên 38,4% đối với nữ giới.

Bỉ áp thuế thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường từ năm 2016. Tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này vào năm 2014 là 13,9% đã tăng lên 17,2% vào năm 2019, còn ở nữ giới tăng từ 14,2% năm 2014 lên 15,6% năm 2019.

Phần Lan áp thuế tiêu thụ đặc biệt từ năm 1940. Trong giai đoạn 2012-2013, mức tiêu thụ nước giải khát đã giảm 3,8%. Đối với nước trái cây bị đánh thuế, lượng tiêu thụ đã giảm từ 15% đến 35% trong giai đoạn 2011-2012. Tuy vậy, tỷ lệ béo phì vẫn tiếp tục gia tăng, ở nam giới vào năm 2014 là 18,9% đã tăng lên 21,8% vào năm 2017.

Những ví dụ trên cho thấy, việc giảm tiêu thụ nước giải khát có đường không đồng nghĩa với việc giảm tỷ lệ thừa cân, béo phì. Nếu người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em tiếp tục sử dụng các loại thực phẩm có hàm lượng calorie cao và ít luyện tập thể chất thì vấn đề thừa cân, béo phì không thể được giải quyết dù có áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường.

Hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát đang gặp nhiều khó khăn do chi phí sản xuất, chi phí hoạt động gia tăng, trong khi nhu cầu tiêu dùng sụt giảm. Hơn nữa, quá trình phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát đang chịu ảnh hưởng tiêu cực, không chỉ từ các yếu tố về kinh tế xã hội mà còn từ các chính sách mới ban hành.

Các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát đang gặp nhiều khó khăn do chi phí sản xuất.
Các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát đang gặp nhiều khó khăn do chi phí sản xuất.

Cụ thể, Luật đất đai 2024 có hiệu lực từ ngày 1/8/2024 cho phép công bố bảng giá đất mới sát với giá thị trường, áp dụng từ ngày 1/1/2026 và sẽ được điều chỉnh hàng năm. Các chuyên gia nhận định, việc áp dụng quy định mới này sẽ khiến cho bảng giá đất mới tại các địa phương có thể tăng từ 2 đến 7 lần so với bảng giá đất hiện tại, dẫn đến chi phí thuê đất hàng năm của các doanh nghiệp sẽ tăng lên tương ứng.

Luật bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn luật Trách nhiệm tái chế, kiểm kê, giảm phát thải khí nhà kính, cùng với các loại phí môi trường sẽ làm chi phí tuân thủ, chi phí hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát tăng lên đáng kể.

Giá mặt hàng đường – nguyên liệu đầu vào của ngành sản xuất nước giải khát tăng do thuế VAT đối với mặt hàng đường tăng từ 5% lên 10%.

Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) cũng đề xuất loại bỏ các ưu đãi thuế đối với nhóm mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Như vậy, khi các luật này được thông qua và có hiệu lực từ năm 2026 thì các doanh nghiệp ngành nước giải khát cũng sẽ không được hưởng các ưu đãi thuế nếu mặt hàng nước giải khát có đường thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Với sự gia tăng chi phí sản xuất và chi phí hoạt động do những thay đổi về chính sách như nêu trên, các doanh nghiệp trong ngành nước giải khát sẽ buộc phải tăng giá bán sản phẩm để đảm bảo cân đối doanh thu và chi phí. Điều này có thể khiến cho lạm phát gia tăng khi mặt hàng đồ uống cũng nằm trong nhóm hàng hóa và dịch vụ được dùng để tính chỉ số CPI.

Áp lực chi phí sản xuất, chi phí hoạt động tăng, trong khi nhu cầu tiêu dùng đang trên đà giảm, các doanh nghiệp ngành sản xuất đồ uống, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đã suy yếu nay lại phải chịu nhiều tổn thất hơn so với các ngành khác. Do vậy, các chuyên gia, doanh nghiệp và hiệp hội kiến nghị việc ban hành hay sửa đổi, bổ sung các chính sách hiện hành cần phải đánh giá tác động toàn diện, nhất là đối tượng chịu tác động của chính sách, đề từ đó cân nhắc việc quy định cũng như thời điểm áp dụng chính sách cho phù hợp.