APS bị phạt 130 triệu đồng
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ký quyết định số 453/QĐ-UBCK về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với APS
Ngày 21/6/2011, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ký Quyết định số 453/QĐ-UBCK về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương (mã APS-HNX).
Theo đó, căn cứ kết quả thanh tra hoạt động của Công ty cho thấy trong khoảng thời gian từ 1/1/2010 đến 20/4/2011, Công ty đã có một số hành vi vi phạm quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cụ thể như bố trí người chưa có chứng chỉ hành nghề chứng khoán thực hiện những nghiệp vụ mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán, vi phạm quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 62 Luật Chứng khoán; Không lưu giữ đầy đủ bằng chứng chứng minh việc đặt lệnh của khách hàng, vi phạm quy định tại Khoản 3 và 8 Điều 33 Quy chế Tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính;
Chưa thực hiện tách bạch tiền của nhà đầu tư với tiền của công ty, vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 71 Luật Chứng khoán; Chưa thực hiện đóng cửa một số đại lý nhận lệnh, vi phạm quy định tại Điều 2 Quyết định 126/2008/QĐ-BTC ngày 26/12/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán ban hành kèm theo quyết định 27/2007/QĐ-BTC;
Do đó, xét tính chất và mức độ vi phạm, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty với các hình thức là phạt tiền 20 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 22 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; phạt tiền 30 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; Phạt tiền 70 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; Phạt tiền 10 triệu đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 85/2010/NĐ-CP. Tổng cộng mức phạt tiền là 130 triệu đồng.
Đồng thời, công ty này phải có biện pháp khắc phục hậu quả như buộc chấp hành đúng quy định pháp luật về hoạt động của công ty chứng khoán theo quy định tại Khoản 7 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP và buộc chấp hành đúng quy định pháp luật về hành nghề chứng khoán theo quy định tại Khoản 6 Điều 22 Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
Theo đó, căn cứ kết quả thanh tra hoạt động của Công ty cho thấy trong khoảng thời gian từ 1/1/2010 đến 20/4/2011, Công ty đã có một số hành vi vi phạm quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cụ thể như bố trí người chưa có chứng chỉ hành nghề chứng khoán thực hiện những nghiệp vụ mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán, vi phạm quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 62 Luật Chứng khoán; Không lưu giữ đầy đủ bằng chứng chứng minh việc đặt lệnh của khách hàng, vi phạm quy định tại Khoản 3 và 8 Điều 33 Quy chế Tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính;
Chưa thực hiện tách bạch tiền của nhà đầu tư với tiền của công ty, vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 71 Luật Chứng khoán; Chưa thực hiện đóng cửa một số đại lý nhận lệnh, vi phạm quy định tại Điều 2 Quyết định 126/2008/QĐ-BTC ngày 26/12/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán ban hành kèm theo quyết định 27/2007/QĐ-BTC;
Do đó, xét tính chất và mức độ vi phạm, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty với các hình thức là phạt tiền 20 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 22 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; phạt tiền 30 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; Phạt tiền 70 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP; Phạt tiền 10 triệu đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 85/2010/NĐ-CP. Tổng cộng mức phạt tiền là 130 triệu đồng.
Đồng thời, công ty này phải có biện pháp khắc phục hậu quả như buộc chấp hành đúng quy định pháp luật về hoạt động của công ty chứng khoán theo quy định tại Khoản 7 Điều 18 Nghị định 85/2010/NĐ-CP và buộc chấp hành đúng quy định pháp luật về hành nghề chứng khoán theo quy định tại Khoản 6 Điều 22 Nghị định 85/2010/NĐ-CP.