Quyết định tiếp tục giãn cách xã hội ở các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, TP.HCM và các địa phương phía Nam kéo dài hết tháng 8 và có thể sang tháng 9/2021, đã khiến dòng tiền vào doanh nghiệp ngày càng tồi tệ. Các chuyên gia cho rằng dù nợ vay được treo nhưng khi hết hạn giãn, hoãn, bài toán nợ xấu đã khó càng thêm khó...
Ảnh minh hoạ
Cục Thống kê Hà Nội cho biết từ ngày 1/1/2021 đến 15/7/2021, có 7.400 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, tăng 5%; có 1.700 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước.
Tương tự, tại tỉnh Bình Dương, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể lần lượt tăng 34% và 48,3% so với cùng kỳ năm 2020.
ÁP LỰC DÒNG TIỀN GHÌ CHẶT DOANH NGHIỆP
Diễn biến này cũng xuất hiện tại một số tỉnh khác như Cần Thơ, Đồng Nai, Tiền Giang, Vĩnh Long… Nhìn chung, số liệu của Cục Thống kê tại các địa phương đang thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16, cho thấy số lượng doanh nghiệp giải thể hoặc tạm dừng hoạt động đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.
Đáng lo lắng nhất là tại đầu tàu kinh tế TP.HCM, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong 7 tháng đầu năm đã lên đến 12.071 doanh nghiệp (chiếm 30% số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh của cả nước), tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là kỷ lục về số lượng doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh trong 7 tháng đầu năm tại địa phương này giai đoạn 2016-2021.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, thời gian qua, dịch Covid-19 đã làm trên 70% doanh nghiệp bị ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, do chưa thể đáp ứng thực hiện “3 tại chỗ” (sản xuất tại chỗ - ăn tại chỗ - nghỉ ngơi tại chỗ) trong thời gian quá ngắn (01 ngày) theo yêu cầu về phòng, chống dịch bệnh của UBND thành phố nên nhiều doanh nghiệp đã phải tạm dừng hoạt động.
Một số chuyên gia cho rằng khi đại dịch xảy đến, doanh nghiệp rời bỏ thị trường được coi như một cuộc thanh lọc hoặc họ tạm dừng để cấu trúc lại. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp lớn hơn, đã và đang thực hiện mô hình “3 tại chỗ” hay “1 cung đường 2 điểm đến” để duy trì sản xuất nhưng cũng chỉ có thể hoạt động cầm chừng. Đa số doanh nghiệp cho biết chỉ hoạt động được 5-10% công suất, trong khi chi phí rất cao.
Đại diện Tổng công ty Công nghiệp thực phẩm Đồng Nai ở Khu công nghiệp Biên Hoà 2, cho biết công ty đang tổ chức cho khoảng 523 người lao động lưu trú tại nhà máy để tiếp tục sản xuất, nhưng thời gian ăn, nghỉ kéo dài khiến nhiều lao động gặp khó khăn vì còn gia đình bên ngoài.
“Để giữ chân người lao động, ngoài tiền lương, công ty còn phải hỗ trợ hơn 100 nghìn đồng/người/ngày, những người có con nhỏ còn hỗ trợ thêm. Dù vậy, công nhân làm việc vẫn bị giảm năng suất do tinh thần không ổn định, căng thẳng, áp lực, phải đảm nhận công việc ở vị trí khác do thiếu hụt lao động”, vị đại diện doanh nghiệp trên nói.
Nhìn chung doanh nghiệp đang rất khó khăn khi dòng tiền phải chịu áp lực từ hai phía. Trong đó, chi phí ngày càng tăng mạnh nhưng doanh thu cũng gặp vấn đề lớn do tổng cầu suy giảm.
Chưa kể, theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với vấn đề bỏ chi phí nuôi nhân công “3 tại chỗ” nhưng không được chiết khấu vào tiền lương người lao động. Tại các nhà máy của Tập đoàn Masan ở Bình Dương và TP.HCM, khi thực hiện “3 tại chỗ”, doanh nghiệp phải bỏ ra toàn bộ chi phí ăn, ở cho công nhân; chưa kể phải đối mặt với hàng loạt vấn đề xã hội phức tạp khi duy trì tập trung hàng nghìn lao động trong nhà máy.
Một vấn đề khác hiện nay là các doanh nghiệp phải đối mặt với tổng cầu suy giảm. Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 ước tính đạt 339,4 nghìn tỷ đồng, giảm 8,3% so với tháng trước và giảm 19,8% so với cùng kỳ năm trước. Khi doanh thu lao dốc không phanh, sức chịu đựng của doanh nghiệp ngày càng bị bào mòn.
Nhìn nhận tổng thể, ông Phạm Quang Anh, Tổng giám đốc Công ty May mặc Dony, cho biết: “Chi phí tăng nhưng doanh thu thì cứ giảm. Do đó, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là dòng tiền bị đứt gãy. Doanh nghiệp đang tạm ngừng hoạt động một phần nhưng có rất nhiều khách hàng mình đã chuyển hàng từ trước. Mà bản thân khách hàng cũng tạm ngừng hoạt động nên không thể trả tiền cho mình. Khi đó, mình cũng không có tiền trả cho đối tác. Đó là chuỗi vấn đề, nó cứ vướng lẫn nhau và xoay thành vòng tròn chưa thấy lối thoát”.
Điều này cũng được thể hiện trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi Chính phủ để thành lập tổ công tác đặc biệt về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, hiện hầu hết các doanh nghiệp, hiệp hội đều phản ánh do nhu cầu thị trường, đơn hàng, doanh thu đều sụt giảm, dòng tiền vào bị thiếu hụt nghiêm trọng khiến doanh nghiệp gặp khó khi chi trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, phí công đoàn cho người lao động.
CƠ CẤU NỢ CHƯA GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ BÀI TOÁN NỢ XẤU
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã ra Thông tư 01 và Thông tư 03 nhằm hoãn, giãn, cơ cấu lại nợ vay ngân hàng theo hướng phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh, giảm bớt áp lực chi phí tài chính cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.
Theo đó, tính đến ngày 14/6/2021, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 241.443 khách hàng với dư nợ 326.299 tỷ đồng. Đồng thời, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện gia hạn nợ cho 178.952 khách hàng với dư nợ 4.472 tỷ đồng, cho vay mới 3.116.431 khách hàng với số tiền 113.710 tỷ đồng.
Mặc dù đã được cơ cơ lại rất nhiều khoản nợ nhưng trong báo cáo tài chính quý 2/2021 của các ngân hàng công bố, tổng số dư nợ xấu đến thời điểm 30/6/2021 vẫn tăng 4,5% so với cuối năm trước, tương đương tăng gần 124.898 tỷ đồng.
Trong đó, có những ngân hàng nợ xấu lên tới 24.429 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cuối năm trước. Một “ông lớn” duy nhất có nợ xấu giảm sau 6 tháng đầu năm... nhưng quy mô tuyệt đối vẫn lên tới 21.141 tỷ đồng.
Thậm chí, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, con số nợ xấu trên vẫn chưa phản ánh hết tình hình hiện tại. Bởi lẽ, dòng tiền của doanh nghiệp bị đứt gãy như đã nói bên trên, nên dù có “treo” thì vẫn sẽ bị lộ ra khi hết hạn hoãn, giãn. Ông Hùng cho rằng chỉ cần 30% tổng số dư nợ đang được cơ cấu biến thành nợ xấu thì câu chuyện nợ xấu của ngành ngân hàng sẽ rẽ sang hướng khác.
“Các tổ chức tín dụng đang xử lý nợ xấu rất tốt nhưng lại bị ảnh hưởng vì dịch Covid-19 kéo dài. Những doanh nghiệp tại địa phương phải thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16 của Chính phủ hầu như đều rơi vào tình trạng đứt gãy dòng tiền. Đây là đối tượng khách hàng của ngân hàng, thu nhập giảm, đồng nghĩa khả năng trả nợ ngân hàng bị ảnh hưởng”, ông Hùng nói.
Tại tờ trình hồi đầu năm, Ngân hàng Nhà nước dự báo đến cuối tháng 12/2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng từ 1,54% - 1,91%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của các tổ chức tín dụng ở mức 3,43% - 3,84%.
Nếu tính thêm các khoản nợ không chuyển nợ xấu do được cơ cấu thời hạn trả nợ theo Thông tư 01, đến cuối năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ ở mức gần 5%.
Theo các chuyên gia, giải pháp cơ cấu nợ là một biện pháp mang tính giải quyết tình thế và không triệt để. Đặc biệt khi đợt dịch bùng phát lần này “đánh” thẳng vào các đầu tàu kinh tế của nước – những nơi chủ chốt tạo ra hàng hoá xuất khẩu cũng như nơi tiêu thụ lượng hàng hoá lớn như Hà Nội hay Tp.HCM.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng cho rằng các ngân hàng cần có những báo cáo riêng để bộ phận quản lý nợ nắm được và theo dõi sát những khoản nợ đáng lý ra đã thành nợ xấu nhưng được bao bọc bởi “lớp vỏ” cơ cấu lại nợ, để tránh gặp rủi ro trong vấn đề kiểm soát nợ xấu có thể xảy ra trong tương lai.
“Ngay cả đối với quy định được giữ nguyên nhóm nợ thì các ngân hàng cũng nên thận trọng trong việc thực hiện quy định này. Chẳng hạn, ngân hàng nào có đủ lực vẫn nên phân loại nợ theo quy định thông thường, theo đó sẽ dành khoản trích lập dự phòng rủi ro tương ứng. Vì nguồn vốn dành cho trích lập dự phòng rủi ro giúp các ngân hàng tạo nên một quỹ giống như khoản “bảo hiểm” để có thể xử lý được rủi ro nợ xấu trong tương lai nếu xảy ra”, ông Hiếu nhấn mạnh.
Tổ chức tín dụng tiếp nhận các trường hợp chuyển giao bắt buộc được giảm 50% mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Thông tư số 23/2025/TT-NHNN bổ sung trường hợp được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tổ chức tín dụng nhận chuyển giao ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng …
Mức tăng giá mua, bán vàng miếng SJC gần gấp đôi vàng nhẫn “4 số 9”
Chốt phiên giao dịch sáng 14/8, giá mua, bán vàng miếng SJC đồng loạt tăng từ 500 nghìn – 800 nghìn đồng/lượng. Tuy nhiên, giá mua bán vàng nhẫn “4 số 9” chỉ tăng từ 300 nghìn đồng/lượng – 500 nghìn đồng/lượng, tuỳ từng thương hiệu...
Giá vàng tăng sau phát biểu của Bộ trưởng Tài chính Mỹ
Giá vàng thế giới tăng trong phiên đêm qua và sáng nay (14/8), khi nhà đầu tư gia tăng đặt cược vào khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hạ lãi suất trong cuộc họp tháng 9...
VRB triển khai gói vay cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Với hạn mức cho vay lên tới 10 tỷ đồng đối với nhu cầu vốn VND và lên tới 450 nghìn USD cho nhu cầu vay vốn ngoại tệ, thời hạn cho vay lên tới 12 tháng, VRB mang đến giải pháp vốn linh hoạt và tiết kiệm, giúp doanh nghiệp củng cố dòng tiền, mở rộng hoạt động trong giai đoạn cuối năm đầy cơ hội...
“Thức tỉnh” kênh vốn cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính Việt Nam, dù được đánh giá là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn quan trọng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng tại Việt Nam vẫn còn quá nhỏ so với tiềm năng. Những vướng mắc về hành lang pháp lý, sự thiếu đồng bộ trong chính sách và cả việc “bỏ quên” lĩnh vực cho thuê tài chính trong các văn bản quy phạm pháp luật đang là rào cản lớn…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: