Tại dự thảo Tờ trình chính sách Luật Đầu tư (thay thế), Bộ
Tài chính đã kiến nghị bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài
thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng và Bộ Tài chính.
Thay vào đó, nhà đầu tư sẽ đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
về việc chuyển tiền ra nước ngoài.
GIA TĂNG
SỨC CẠNH TRANH CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TẠI NƯỚC NGOÀI
Giải thích về lý do bãi bỏ, Bộ Tài chính cho biết việc quản lý
hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ đúng thực chất hơn. Đặc biệt khi nhà đầu tư
đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư đã có tài liệu chấp thuận
đầu tư của nước ngoài (giấy phép đầu tư/giấy chứng nhận thành lập doanh
nghiệp/hợp đồng góp vốn/mua cổ phần vào công ty nước ngoài…). Khi đó, hoạt động
đầu tư đã “chắc chắn” hơn và “xác thực” hơn.
Đồng thời, việc bãi bỏ thủ tục cũng sẽ giúp cắt giảm rất nhiều thủ
tục hành chính, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy
và gia tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho nhà đầu
tư tiếp cận nhanh hơn cơ hội đầu tư ở nước ngoài, góp phần mở rộng thị trường,
phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, đóng góp cho nền kinh
tế đất nước nhất là trong điều kiện phát triển nhanh chóng của công nghệ như
hiện nay.
Phương án này cũng sẽ nâng cao công tác quản lý nhà nước thông qua
việc quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước sẽ nhanh chóng thống kê và kiểm tra
được tình hình thực hiện vốn đầu tư và tình hình chuyển tiền về nước thông qua
hệ thống ngân hàng để có đánh giá và điều chỉnh kịp thời khi có ảnh hưởng đối
với cán cân thanh toán/dự trữ ngoại hối; hệ thống ngân hàng có công cụ xử lý
kịp thời đối với các trường hợp không tuân thủ quy định về chế độ báo cáo (như
tạm dừng cho phép chuyển tiền, phong tỏa tài khoản vốn đầu tư trong trường hợp
khẩn cấp...).
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến hết tháng 7 năm 2025, Việt Nam có 1.928 dự án
đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư Việt Nam hơn 23,15 tỷ USD.
Trong đó, Lào là quốc gia mà Việt Nam đầu tư nhiều nhất, với tổng số vốn hơn 5,8 tỷ USD tại 275 dự án; tiếp theo là các quốc gia như Campuchia với 2,94 tỷ USD tại 219 dự án...
Theo Bộ Tài chính, Luật Đầu tư đang quy định phạm vi quản lý của
cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài khá rộng, bao quát
toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài (mục tiêu, quy mô, địa điểm, phạm vi hoạt
động, tổng vốn đầu tư…).
Quy định này không rõ ràng về mục tiêu quản lý nhà
nước (quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài hay toàn bộ hoạt động của dự án),
đồng thời cũng không khả thi bởi các hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân
thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Ngân hàng Nhà nước hiện là cơ quan quản lý về đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài. Do đó, việc Ngân hàng Nhà nước quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài là phù hợp để nắm bắt tổng thể nguồn vốn của Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước xác nhận các hoạt động chuyển vốn ra
nước ngoài để đầu tư cũng sẽ hỗ trợ công tác phòng chống rửa tiền được thuận
lợi và hiệu quả hơn.
GỠ BỎ ĐƯỢC NHIỀU VƯỚNG MẮC CÒN TỒN ĐỌNG
Việc doanh nghiệp tại Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài đang dần trở thành một xu hướng phổ biến nhằm chủ động hơn vào chuỗi
sản xuất toàn cầu và là cách thức quan trọng để nhập khẩu công nghệ, phát triển
thị trường, tìm kiếm khách hàng… đem lại nhiều lợi ích về mở rộng thị
trường...
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực,
các thủ tục đầu tư ra nước ngoài đã phát sinh một số bất cập trong quá trình
quản lý của cơ quan nhà nước cũng như thực hiện của nhà đầu tư.
Đầu tiên, nhà đầu tư ra nước ngoài thường
sẽ sử dụng vốn tư nhân của mình để thực hiện đầu tư ra nước ngoài và tuân thủ
các quy định pháp luật tại nước sở tại.
Song cơ quan nhà nước Việt Nam
lại phê duyệt nhiều nội dung về dự án về “hình thức, quy mô, địa điểm, tiến độ
thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn” là chưa thật sự
hợp lý, ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư; chưa
phân định rõ nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và những
nội dung thuộc thẩm quyền điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Bên cạnh đó, các thủ tục đầu tư ra nước
ngoài này khó ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư sau khi nhà đầu tư đã thực
hiện xong việc chuyển tiền ra nước ngoài. Việc tiếp tục duy trì cơ chế quản lý
đầu tư ra nước ngoài như hiện tại không còn phù hợp vì làm cản trở, hạn chế
việc nắm bắt cơ hội đầu tư ở nước ngoài của nhà đầu tư.
Thực tiễn cho thấy nhiều nước trên thế
giới chỉ thực hiện chế độ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài để thực hiện
hoạt động đầu tư và có chính sách cấm hoặc hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài
trong một số trường hợp nhất định để đảm bảo cân đối vĩ mô cũng như tính hợp
pháp của nguồn tiền, mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài bởi
những hoạt động này được thực hiện tại nước tiếp nhận đầu tư và phải tuân thủ
pháp luật của nước đó.
Hiện nay, chỉ còn Việt Nam, Lào còn cấp
giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trong khi đó, Trung Quốc cũng có
cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nhưng nới lỏng, chỉ quản lý các dự án lớn và
một số lĩnh vực.
Các quốc gia khác đã chuyển sang cơ chế nhà đầu tư kê khai, đăng
ký vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài với hệ thống ngân hàng khi thực hiện hoạt
động đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài. Vì vậy, việc Việt Nam bãi bỏ quy định về
cấp giấy chứng nhận đầu ra nước ngoài là cần thiết.