Chính thức nâng hạn mức vay vốn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 8/11
Thời hạn vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được tăng từ không quá 60 tháng lên tối đa 120 tháng.
Theo quy định mới, các cơ sở sản xuất, kinh doanh sẽ được vay mức tối đa là 2 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 100 triệu đồng.
Nâng mức vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; quy định mới về tổ hợp tác; hướng dẫn về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2019.
Nâng mức vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một trong những chính sách đáng chú ý và được mong đợi nhất trong tháng 11 là Nghị định số 74của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61 quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm theo hướng nâng mức vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và người lao động để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm.
Theo đó, về mức vay đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, Nghị định số 74 đã nâng mức vay tối đa từ 1 tỷ đồng/dự án và không quá 50 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm, lên mức 2 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm.
Đối với người lao động, mức vay tối đa cũng được nâng từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng.
Nghị định mới cũng quy định rõ, đối với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên, cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Bên cạnh đó, thời hạn vay vốn cũng được tăng từ không quá 60 tháng lên tối đa 120 tháng. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 8/11/2019.
Quy định mới về tổ hợp tác
Một Nghị định khác cũng có hiệu lực trong tháng 11/2019 là Nghị định 77 ngày 10/10/2019 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức, hoạt động và chấm dứt hoạt động của tổ hợp tác.
Theo quy định, tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 2 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.
Tổ hợp tác hoạt động trên cơ sở hợp đồng hợp tác. Trong đó, hợp đồng hợp tác do các thành viên tổ hợp tác tự thỏa thuận; được lập thành văn bản, có chữ ký của 100% các thành viên trong tổ hợp tác.
Cá nhân, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập và rút khỏi tổ hợp tác khi có lý do chính đáng và được sự đồng ý của hơn 50% tổng số thành viên hoặc theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác.
Nghị định nêu rõ, để trở thành thành viên của tổ hợp tác, các thành viên phải đáp ứng các điều kiện.
Thứ nhất, cá nhân là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật dân sự, quy định của Bộ luật lao động và pháp luật khác có liên quan;
Thứ hai, tổ chức là pháp nhân Việt Nam, thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có năng lực pháp luật phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của tổ hợp tác.
Thứ ba, tự nguyện gia nhập và chấp thuận nội dung hợp đồng hợp tác. Thứ tư, cam kết đóng góp tài sản, công sức theo quy định của hợp đồng hợp tác. Thứ năm, điều kiện khác theo quy định của hợp đồng hợp tác.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 25/11/2019.
Cán bộ quản lý thị trường không được gợi ý, đòi hỏi các lợi ích vật chất
Thông tư 18 của Bộ Công Thương về hoạt động công vụ của lực lượng Quản lý thị trường có hiệu lực thi hành từ 15/11/2019 nêu rõ những việc không được làm trong hoạt động công vụ.
Cụ thể, có hành vi, cử chỉ, thái độ không đúng mực, lăng mạ, bôi nhọ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức trong hoạt động công vụ; không giải quyết hoặc không tham mưu, ban hành văn bản trả lời liên quan đến chế độ, chính sách đúng thời hạn làm ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa hợp pháp hoặc quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh đó, cán bộ Quản lý thị trường cũng không được lợi dụng hoạt động công vụ bao che, dung túng hoặc thông đồng với tổ chức, cá nhân có vi phạm hành chính để làm trái các quy định của pháp luật nhằm mục đích tham ô, nhận hối lộ dưới mọi hình thức; không được gợi ý, đòi hỏi phải thỏa mãn các lợi ích vật chất, phi vật chất hoặc cố ý vay mượn tiền bạc, mua hàng của tổ chức, cá nhân đang trong quá trình thanh tra chuyên ngành, kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính.
Hướng dẫn về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
Thông tư 68 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 119 quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14/11/2019.
Theo đó, Thông tư này hướng dẫn một số nội dung về hóa đơn điện tử theo quy định tại Nghị định số 119 của Chính phủ bao gồm nội dung hóa đơn điện tử, thời điểm lập hóa đơn điện tử, định dạng hóa đơn điện tử, áp dụng hóa đơn điện tử, cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử, quản lý sử dụng hóa đơn điện tử, xây dựng quản lý cơ sở dữ liệu hóa đơn điện tử và tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử.