12:25 10/03/2025

Doanh nghiệp FDI chiếm tới 48,3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành gỗ

Chu Khôi

Khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tiếp tục đóng vai trò là một trong những động lực phát triển quan trọng của ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2024, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của khối FDI đạt 7,67 tỷ USD, chiếm tới 48,3% tổng kim ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành…

Đầu tư của các doanh nghiệp FDI vào ngành gỗ Việt Nam ngày càng tăng mạnh.
Đầu tư của các doanh nghiệp FDI vào ngành gỗ Việt Nam ngày càng tăng mạnh.

Cuối tuần qua tại Bình Định, Forest Trends (Tổ chức lâm nghiệp và quản lý rừng bền vững) phối hợp với các hiệp hội VIFOREST (Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam), FPA (Hiệp hội Gỗ và lâm sản Bình Định), BIFA (Hiệp hội Chế biến gỗ Bình Dương), HAWA (Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. HCM), DOWA (Hiệp hội Gỗ và Thủ công mỹ nghệ Đồng Nai) tổ chức Hội nghị "Đánh giá cơ hội, thách thức và đề xuất giải pháp đạt mục tiêu xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2025".

HOA KỲ CHIẾM 55,5% TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GỖ CỦA VIỆT NAM

Thông tin tại hội nghị, bà Cao Thị Cẩm, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST), cho biết kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong năm 2024 đạt 15,89 tỷ USD tăng 20,1% so với năm 2023.

Xét về thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, Hoa Kỳ đứng vị trí thứ nhất với 8,8 tỷ USD, tăng 23,9% so với năm 2023, chiếm 55,5% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào tất cả các thị trường. 

Vị trí thứ hai thuộc về Trung Quốc với kim ngạch trên 2,04 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2023; chiếm 12,8% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Nhật Bản xếp thứ ba với kim ngạch đạt trên 1,72 tỷ USD, tăng 3,9% so với năm 2023; chiếm 10,8% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. 

Hàn Quốc ở vị trí thứ tư, kim ngạch trên 804,05 triệu USD, tăng nhẹ 0,9% so với năm 2023; chiếm 5,1% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Xếp thứ năm là EU, với 574,06 triệu USD, tăng 26% so với năm 2023; chiếm 3,6% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.

Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ hàng năm của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2024. Nguồn: VIFOREST.
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ hàng năm của Việt Nam
giai đoạn 2021 - 2024. Nguồn: VIFOREST.

Theo VIFOREST, có 5 nhóm hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn của ngành gỗ trong năm 2024, gồm: đồ gỗ, ghế ngồi, dăm gỗ, gỗ dán, viên nén. Kim ngạch xuất khẩu của năm nhóm hàng này đạt 14,43 tỷ USD, chiếm 98,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ.

Xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2024 và nhận định xu hướng năm 2025. Nguồn: VIFOREST.
Xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2024
và nhận định xu hướng năm 2025. Nguồn: VIFOREST.

Cụ thể, đồ gỗ (HS 9403) có kim ngạch xuất khẩu đạt 6,44 tỷ USD, chiếm 40,5% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, tăng 21,5% so với năm 2023. Mặt hàng ghế ngồi (HS 9401) đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, giảm 5,1% so với năm 2023.

Xuất khẩu dăm gỗ (HS 4401.22) đạt 18,3 triệu tấn, kim ngạch 2,66 tỷ USD, tăng 26,9% về lượng và 19,8% về giá trị so với năm 2023, chiếm 16,7% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Mặt hàng gỗ dán/gỗ ghép có lượng xuất khẩu đạt trên 3,35 triệu m3, tương đương với 1,03 tỷ USD, tăng 20,9% về lượng và 16,4% về giá trị so với năm 2023, chiếm 6,5% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.

Xuất khẩu viên nén đạt 6,03 triệu tấn, kim ngạch 805,23 triệu USD, tăng 29,1% về lượng và 18,5% về giá trị so với năm 2023, chiếm 5% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.

Xuất khẩu ván bóc đạt gần 1,01 triệu m3 và 248,45 triệu USD, giảm 9,3% về lượng, nhưng tăng 13,2% về giá trị kim ngạch so với năm 2023, chiếm 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ vàn sản phẩm gỗ.

777 DOANH NGHIỆP FDI THAM GIA XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ

Báo cáo hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong (FDI) ngành Gỗ năm 2024 do Tổ chức Forest Trends phối hợp với VIFOREST thực hiện, cho thấy năm 2025, ngành gỗ Việt Nam tiếp tục chứng kiến làn sóng chuyển dịch đầu tư giữa các khu vực và quốc gia trên thế giới với vai trò ngày càng tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Theo báo cáo được công bố, năm 2024, trong số trên 4.200 doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp gỗ và sản phẩm gỗ đạt trị giá 15,89 tỷ USD, thì khu vực FDI có 777 doanh nghiệp tham gia, chiếm 18,5% số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của khối FDI đạt 7,67 tỷ USD,  chiếm tới 48,3% tổng kim ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành.

Số dự án FDI đầu tư mới và tổng vốn FDI đầu tư mới vào ngành gỗ giai đoạn 2021 - 2024. Nguồn: VIFOREST, FPA Bình Định, HAWA, BIFA, DOWA và Forest Trends tổng hợp.
Số dự án FDI đầu tư mới và tổng vốn FDI đầu tư mới vào ngành gỗ
giai đoạn 2021 - 2024. Nguồn: VIFOREST, FPA Bình Định, 
HAWA, BIFA, DOWA và Forest Trends tổng hợp.

Theo báo cáo, tính đến hết năm 2024, số dự án FDI đầu tư mới tăng 7% về số lượng và 73,2% về số vốn đầu tư so với năm 2023. Trong tổng số 16 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư 61 dự án mới vào ngành gỗ, thì Trung Quốc có 25 dự án với vốn đầu tư 185,3 triệu USD, chiếm 41% về số dự án và chiếm 35,7% về tổng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành gỗ, tập trung vào chế biến gỗ, mặt hàng giường tủ, bàn, ghế, sofa,… Đài Loan (Trung Quốc) có 5 dự án mới, với số vốn 129,62 triệu USD, chiếm 8,3% về số dự án và 24,9% về tổng vốn đầu tư. Năm 2024, các dự án có 46 lượt góp vốn mua cổ phần, đạt 139,1 triệu USD về số vốn góp, tăng 27,8% về số lượng và giảm 0,5% về số vốn so với năm 2023.

 

"Sự gia tăng mạnh trong các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp FDI cho thấy, định vị ngày càng tăng của ngành gỗ Việt Nam, nhất là ảnh hưởng của các chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ 4 năm tới”.

TS. Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends.

Về góp vốn mua cổ phần, năm 2024 các dự án có 46 lượt góp vốn mua cổ phần, đạt 139,1 triệu USD về số vốn góp, tăng 27,8% về số lượng và giảm 0,5% về số vốn so với năm 2023. Trong tổng số 17 quốc gia/vùng lãnh thổ có các dự án góp vốn mua cổ phẩn trong ngành gỗ, Trung Quốc có 19 lượt góp vốn mua cổ phần với số vốn góp đạt 20,2 triệu USD; Đài Bắc (Trung Quốc) có 7 lượt với số vốn góp đạt trên 75,84 triệu USD; Hồng Kông (Trung Quốc) có 2 lượt, với số vốn góp đạt 25 triệu USD.

Về điều chỉnh vốn, năm 2024, số lượt điều chỉnh vốn là 47 lượt, với số vốn điều chỉnh đạt 139,35 triệu USD tăng 34,3% về số lượt và 143,4% về số vốn so với năm 2023. Trong số 14 quốc gia, vùng lãnh thổ điều chỉnh vốn đầu tư vào các dự án ngành gỗ, Trung Quốc chỉ đứng sau Singapore với 11 lượt điều chỉnh vốn, với số vốn tăng đạt 31,72 triệu USD (Singapore có 10 lượt điều chỉnh vốn, với số vốn tăng 34,2 triệu USD).

Đầu tư FDI vào ngành gỗ Việt Nam giai đoạn 2021 - 2024. Nguồn:  VIFOREST, FPA Bình Định, HAWA , BIFA, DOWAvà Forest Trends tổng hợp.
Đầu tư FDI vào ngành gỗ Việt Nam giai đoạn 2021 - 2024.
Nguồn:  VIFOREST, FPA Bình Định, HAWA , BIFA, DOWA
và Forest Trends tổng hợp.

Mặc dù trong những năm gần đây có các địa phương mới nổi lên trong thu hút đầu tư vào ngành gỗ như Bình Phước, nhưng Bình Dương vẫn là tỉnh dẫn đầu về thu hút đầu tư khối FDI cũng như giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành gỗ trên cả nước. Năm 2024, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của tỉnh này đạt gần 6,6 tỷ USD, tăng 23,9% so với năm 2023, chiếm 41,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ cả nước; trong đó khối FDI đạt 4,68 tỷ USD, chiếm 71 kim ngạch xuất khẩu gỗ của tỉnh.

ỨNG PHÓ VỚI THỊ TRƯỜNG ĐANG THAY ĐỔI

Theo nhận định được các chuyên gia đưa ra tại hội nghị, năm 2025, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều thay đổi, làm sâu sắc thêm các thách thức, khó khăn từ năm 2024 như cuộc xung đột Nga – Ukraine chưa chấm dứt, biến động chuỗi cung ứng với cước phí đường biển giữ ở mức cao. Trong khi đó, chính sách thuế phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ có nhiều thay đổi khó lường.

Đối với thị trường EU, Quy chế sản phẩm không phá rừng EUDR (áp dụng chính thức vào ngày 31/12/2025), Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Chỉ thị về báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp (CSRD) liên quan giảm phát thải khí nhà kính, thiết kế sinh thái… sẽ tác động đến xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.

Trong bối cảnh thị trường đang thay đổi, VIFOREST khuyến nghị các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ cần đổi mới mô hình sản xuất, tiêu thụ để đáp ứng những thách thức. Trong đó, đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và mẫu mã có vai trò then chốt, giúp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.

Để ứng phó với căng thẳng địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các doanh nghiệp ngành gỗ nên lựa chọn di dời chiến lược dựa trên liên minh địa chính trị (bạn bè-housing), hoặc vị trí địa lý gần (near-shoring), nhằm bỏ qua các rào cản thương mại, rút ngắn thời gian giao hàng, kiểm soát chi phí vận chuyển. Các doanh nghiệp cần ứng dụng kỹ thuật số để làm thay đổi trải nghiệm của khách hàng, giúp tăng cường sự gắn kết của khách hàng, đơn giản hóa các quyết định mua hàng của đối tác.