Dự kiến mức tiền lương người đại diện doanh nghiệp nhà nước
Bộ Nội vụ đề xuất mức tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước, và kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước...

Dự thảo Nghị định quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước và kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước đang được Bộ Nội vụ xây dựng.
Theo Bộ Nội vụ, chính sách này được xây dựng trên cơ sở kế thừa các nội dung về tiền lương, thù lao đối với chức danh Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị, Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại Nghị định số 44/2025/NĐ-CP quy định về quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp nhà nước, và điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025.
MỨC TIỀN LƯƠNG TỐI ĐA GẮN VỚI HIỆU QUẢ SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Bộ Nội vụ cho biết về phương thức quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng, tại Nghị định số 44, Chính phủ quy định tách riêng việc xác định nguồn tiền lương (quỹ tiền lương) của người lao động và Ban điều hành với tiền lương của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên và doanh nghiệp toàn quyền chi trả cho người lao động. Chủ sở hữu quyết định mức lương cụ thể của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên.
Theo đó, Chính phủ quy định nguyên tắc xác định tiền lương kế hoạch dựa trên tiền lương thực hiện năm trước liền kề. Còn tiền lương thực hiện dựa trên tiền lương kế hoạch.
Tuy nhiên, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025, quy định Hội đồng thành viên, hoặc Chủ tịch công ty quyết định quỹ tiền lương chung của doanh nghiệp (bao gồm cả người lao động, Ban điều hành, Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên).
Trên cơ sở quỹ lương này, doanh nghiệp quyết định việc trả lương cho người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện vốn.
Vì vậy, dự thảo Nghị định không quy định việc xác định quỹ tiền lương, mà chỉ quy định mức tiền lương tối đa của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên, gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó, làm cơ sở định hướng cho các doanh nghiệp chi trả tiền lương cho người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện vốn. Chủ sở hữu quyết định mức tiền lương, thù lao của Kiểm soát viên.
Hằng năm, doanh nghiệp xác định, quyết định mức tiền lương, thù lao được hưởng của Thành viên hội đồng, chủ sở hữu quyết định mức tiền lương, thù lao của Kiểm soát viên, bảo đảm không vượt quá mức tiền lương, thù lao do Chính phủ quy định.
Về nguyên tắc thực hiện tiền lương, thù lao, tiền thưởng, bảo đảm theo đúng quy định của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025.
Trong đó, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, Kiểm soát viên, người đại diện vốn làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền thưởng do doanh nghiệp chi trả.
Người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, Kiểm soát viên, người đại diện vốn không làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền thưởng do cơ quan đại diện chủ sở hữu chi trả, và hưởng thù lao do doanh nghiệp chi trả.
Tiền lương, thù lao do doanh nghiệp chi trả tính chung trong quỹ lương của doanh nghiệp. Trong đó, có quy định yếu tố khách quan tác động trực tiếp đến lợi nhuận khi xác định tiền lương. Việc này nhằm bảo đảm tiền lương, thù lao gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh thực sự của doanh nghiệp.
Các yếu tố khách quan này được kế thừa từ yếu tố khách quan đã được Chính phủ quy định tại Nghị định số 44.
DỰ KIẾN QUY ĐỊNH 7 MỨC LƯƠNG CƠ BẢN
Về mức tiền lương, dự thảo quy định Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên hưởng mức lương cơ bản và tiền lương tăng thêm theo hiệu quả sản xuất, kinh doanh, do doanh nghiệp quyết định sau khi có ý kiến của chủ sở hữu.
Trong đó, mức lương cơ bản được xác định dựa trên chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận, gồm 7 mức lương, chia theo 2 nhóm: (i) nhóm I gồm 4 mức lương áp dụng đối với tổng công ty, tập đoàn kinh tế; (ii) nhóm II gồm 3 mức lương áp dụng đối với doanh nghiệp độc lập.
Mức cao nhất của Chủ tịch (mức 1 nhóm I) là 80 triệu đồng, thấp nhất của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên (mức 3 nhóm II) là 30 triệu đồng/tháng, như quy định tại Nghị định số 44.
Mức tiền lương được hưởng gắn với lợi nhuận thực tế thực hiện của doanh nghiệp, và bỏ quy định gắn với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Lý do là Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2025 quy định tiền lương gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, không quy định tiền lương gắn với hiệu quả sử dụng vốn như Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Trong đó, lợi nhuận thực hiện không thấp hơn kế hoạch thì được hưởng tối đa không quá 2 lần mức lương cơ bản (Chủ tịch cao nhất có thể đạt 160 triệu đồng/tháng), như quy định tại Nghị định số 44.
Doanh nghiệp có quy mô lớn, có lợi nhuận cao hơn nhiều lợi nhuận tối thiểu (lĩnh vực ngân hàng, viễn thông, dầu khí lợi nhuận 5.500 tỷ đồng), giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, mà có mức lương thấp hơn các chức danh tương đương trên thị trường, thì dự thảo tiếp tục quy định mức lương tối đa cao hơn như quy định tại Nghị định số 44, nhưng có bổ sung các khung tiền lương để thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện.
Cụ thể, mức lương tối đa bằng 2,5 lần mức lương cơ bản (Chủ tịch cao nhất đạt 200 triệu đồng/tháng) nếu lợi nhuận cao hơn 2 lần lợi nhuận tối thiểu (tương ứng phải đạt lợi nhuận 11.000 tỷ đồng).
3 lần mức lương cơ bản (Chủ tịch cao nhất đạt 240 triệu đồng/tháng) nếu lợi nhuận cao hơn 3 lần lợi nhuận tối thiểu (tương ứng phải đạt lợi nhuận 16.500 tỷ đồng).
4 lần mức lương cơ bản (Chủ tịch cao nhất đạt 320 triệu đồng/tháng) nếu lợi nhuận cao hơn 5 lần lợi nhuận tối thiểu (tương ứng phải đạt lợi nhuận 27.500 tỷ đồng).
Bộ Nội vụ cho rằng việc quy định mức lương tối đa bằng 4 lần mức lương cơ bản (Chủ tịch đạt 320 triệu đồng/tháng) dựa trên cơ sở Nghị định số 44, đã mở khung tiền lương tối đa, nên hiện nay có một số doanh nghiệp đã thực hiện tiền lương của Chủ tịch từ 200 - 210 triệu đồng/tháng.
Cá biệt, có doanh nghiệp thuộc khối ngân hàng, mức lương bình quân của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên 213 triệu đồng/tháng, trong đó, Chủ tịch đạt 300 triệu đồng/tháng.
Theo đó, dự thảo quy định mức lương tối đa bằng 4 lần mức lương cơ bản (mức lương tối đa 320 triệu đồng/tháng), tương ứng phải đạt lợi nhuận 27.500 tỷ đồng là phù hợp với thực tế đang áp dụng của doanh nghiệp nhà nước.
Với doanh nghiệp lỗ hoặc không có lợi nhuận, thì mức lương tối đa bằng 50% - 80% mức lương cơ bản như quy định tại Nghị định số 44.
Về mức thù lao, dự thảo tiếp tục quy định Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên không chuyên trách hưởng mức thù lao tối đa 20% mức tiền lương tương ứng của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên chuyên trách như quy định tại Nghị định số 44.
Ngày 14/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp số 68/2025/QH15, có hiệu lực từ ngày 1/8/2025.
Trong đó, giao Chính phủ quy định về tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, Kiểm soát viên. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết tiền lương, thù lao, tiền thưởng và quyền lợi khác của người đại diện phần vốn nhà nước.