
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Sáu, 07/11/2025
Y Nhung
31/07/2010, 07:01
Từ năm 1998 đến nay, giá chè xuất khẩu trung bình của thế giới đã tăng 18%, nhưng giá xuất khẩu chè của Việt Nam lại giảm tới 20%
1,52 USD/kg là mức giá xuất khẩu ngành chè nước ta đã đạt được vào năm 1998. Nhưng từ đó đến nay, giá chè của nước ta liên tục “cài số lùi”.
Báo cáo tổng quan phát triển ngành chè trong 10 năm (1999-2009) tại “Hội nghị Quốc tế Chè Việt Nam lần thứ hai”, được tổ chức sáng 30/7 cho thấy: 10 năm qua, các chỉ tiêu về sản lượng chè khô, sản lượng xuất khẩu, năng suất bình quân, diện tích vùng nguyên liệu… ngành chè đều đạt và vượt kế hoạch.
Nhưng riêng chỉ tiêu kim ngạch vào năm 2009 là 200 triệu USD thì ngành mới chỉ đạt được 179 triệu USD. Về giá chè xuất khẩu, phấn đấu đạt mức 1,8 USD/kg cũng mới chỉ được 1,4 USD/kg.
Điều đáng nói là giá chè xuất khẩu của Việt Nam trong 10 năm qua không những không tăng lên mà ngày càng có khoảng cách xa hơn so với giá trung bình ở các sàn đấu giá lớn trên thế giới như: Calcutta, Colombo, Monbasa.
Mức giá “đỉnh” sản phẩm chè Việt Nam đã đạt được là 1,52 USD/tấn vào năm 1998. Tại thời điểm đó, mức giá trung bình tại 3 sàn đấu giá trên là 2,01 USD/kg.
Đến năm 2009, khi giá chè trung bình tại các sàn này tăng lên là 2,43 USD/kg thì giá chè của Việt Nam lại rơi xuống mức 1,23 USD/kg. So với giá xuất khẩu vào năm 1998 và năm 2009 đã giảm gần 20%, trong khi mức giá trung bình của thế giới đã tăng khoảng 18%.
Đây cũng chính là lý do khiến Việt Nam hiện đang là quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng chè cũng như xuất khẩu, nhưng tên tuổi vẫn chưa được người tiêu dùng trên thế giới biết đến.
Theo ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam (Vitas), nguyên nhân của tất cả những điều này là do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các doanh nghiệp trong nước. Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận trước mắt đã sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm chè kém chất lượng làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của ngành chè Việt Nam.
Thêm vào đó, năng lực chế biến của toàn ngành đang gấp hai lần so với khả năng cung cấp nguyên liệu. Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm lại chưa được quan tâm đúng mức.
Về phía doanh nghiệp vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Phần lớn vẫn chỉ muốn “hớt váng”, còn né tránh đầu tư vào phát triển vùng nguyên liệu cũng như trách nhiệm với cộng đồng và người tiêu dùng.
Đại diện công ty Tea Estate Agencies một khách hàng lớn của ngành chè Việt Nam, bà Nguyễn Thu Hằng còn cho rằng: sở dĩ giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp là do các loại chè chưa bắt kịp với nhu cầu luôn thay đổi của thế giới.
Tồn dư thuốc trừ sâu trong chè xuất khẩu ở mức cao hơn nhiều so với quy định của EU. Tiếp đến là chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm chè trên thị trường thế giới. Nguồn cung tuy dồi dào nhưng nhiều doanh nghiệp còn thiếu sự tuân thủ các hợp đồng trong dài hạn…
Với tư cách là nhà nhập khẩu, bà Hằng cho biết Tea Estate Agencies sẵn sàng mua chè của Việt Nam với giá tốt hơn nếu các doanh nghiệp kiểm soát được việc sử dụng thuốc trừ sâu và lượng tồn dư trên sản phẩm. Sản phẩm được giao phải có chất lượng tốt đúng như mẫu chào hàng.
“Việc giao hàng không giống với cam kết trong hợp đồng không chỉ khó khăn cho công ty trong khâu tiếp thị, bán hàng cho người đóng gói mà còn làm giảm uy tín của chè có xuất xứ từ Việt Nam”, bà Hằng nói.
Tán đồng với ý kiến trên, ông Muhammad Hanif Janoo, Chủ tịch Hiệp hội chè Pakistan cho hay: với 99% dân số uống chè, mỗi năm quốc gia này tiêu thụ khoảng 190.000- 200.000 tấn chè. Pakistan sẵn sàng trả giá cao hơn cho chè Việt Nam với điều kiện chất lượng phải ổn định. Thậm chí, quốc gia này còn muốn đầu tư vào ngành chè với tư cách là đối tác kinh doanh để sản phẩm chè được sản xuất theo yêu cầu tiêu dùng của người dân Pakistan.
Trước ý kiến của các đại biểu tham gia hội nghị, ông Đoàn Anh Tuân khẳng định chỉ có đổi mới ngành chè Việt Nam mới có thể phát triển. Theo đó, Vitas đề nghị các cơ quan chức năng của nhà nước cần có những quyết sách thật “mạnh tay” đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu chè không tuân thủ các quy định.
Về định hướng phát triển ngành chè trong thời gian tới, ông Lê Xuân, Cục trưởng Cục Chế biến Thương mại Nông, Lâm, Thủy sản và Nghề muối cho rằng: ngành cần phải phát triển trên cơ sở thiết lập mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa doanh nghiệp chế biến với người trồng chè; kết hợp phát triển công nghiệp chế biến hiện đại với đầu tư công nghệ truyền thống.
Bên cạnh đó, nên chú trọng sản xuất các loại chè đặc sản, chất lượng cao phù hợp với quy mô từng vùng vùng nguyên liệu, từng địa phương, thay vì sản xuất quá nhiều sản phẩm chè chất lượng thấp như hiện nay.
Trong 10 tháng năm 2025, nhiều chỉ tiêu về kinh tế của Đồng Nai đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, công nghiệp và xuất khẩu tiếp tục là trụ cột tăng trưởng kinh tế của tỉnh sau khi hợp nhất đơn vị hành chính, phù hợp định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn phát triển bền vững...
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp tham gia Amazon ghi nhận tăng trưởng ấn tượng, với số lượng sản phẩm bán ra tính đến hết tháng 7/2025 tăng gần 35% so với cùng kỳ năm 2024...
Sau hơn 6 năm thực thi, Hiệp định CPTPP đã tạo động lực lớn, giúp nhiều ngành hàng của Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và thâm nhập sâu hơn vào thị trường các nước thành viên. Tuy nhiên, việc tận dụng lợi thế về quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan vẫn còn những điểm cần làm rõ...
Sau 10 tháng năm 2025, hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam tiếp tục ghi nhận đà tăng trưởng ấn tượng, với tổng kim ngạch đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2024...
Phân tích lịch sử các quốc gia có thu nhập cao trong giai đoạn tăng trưởng nhanh nhất của họ cho thấy một quy luật nổi bật: con đường dẫn đến thịnh vượng thường không dựa vào kích thích tiêu dùng trong nước mà nhờ cố tình kìm hãm tỷ trọng của tiêu dùng trong nền kinh tế để tối đa hóa đầu tư và xuất khẩu...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: