Gia tăng hàm lượng xuất xứ Việt Nam xuất khẩu sang EU
Dù tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ cấp C/O trong EVFTA đã tăng khá nhưng vẫn còn rất nhiều dư địa để doanh nghiệp tiếp tục gia tăng hàm lượng xuất xứ Việt Nam xuất khẩu sang EU, khai thác tối đa cơ hội từ hiệp định...
Theo Bộ Công Thương, mức độ mà các lô hàng xuất khẩu đi EU được cấp giấy chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) (có thể hiểu là việc cấp các C/O mẫu EUR.1) hiện đang chiếm 20% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang EU.
TỶ LỆ TẬN DỤNG LÀ 20% - CON SỐ KHÁ TÍCH CỰC
Tại tọa đàm “Gia tăng hàm lượng xuất xứ Việt Nam xuất khẩu sang EU trong EVFTA”, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Trưởng phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhận định đây là một con số khá tích cực.
Phân tích cụ thể hơn, bà Hiền cho rằng, hàng xuất khẩu đi EU chủ yếu được cấp C/O đến những thị trường có cảng biển hoặc là các trung tâm phân phối của Châu Âu, ví dụ như Bỉ, Đức, Hà Lan và Pháp...Những mặt hàng hiện nay đang có kim ngạch cao được cấp giấy chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA gồm có da giày, thủy sản...
Các con số cụ thể liên quan đến các mặt hàng, các thị trường có thể thấy rất rõ nét, như: C/O xuất khẩu đi thị trường Đức đã được cấp 3,2 tỷ USD trong hai năm đầu thực hiện EVFTA, cấp đi Bỉ là 3,5 tỷ.
“Con số 20% tỉ lệ kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đi EU được cấp C/O mẫu EUR.1 thể hiện rằng EVFTA đã phát huy hiệu quả bước đầu của một hiệp định có thực chất và rất được kỳ vọng”, bà Hiền đánh giá.
Tuy nhiên, theo bà Hiền, con số 20% kim ngạch hàng hóa được cấp C/O mẫu EUR.1 không có nghĩa là 80% kim ngạch còn lại đang phải chịu thuế cao. Giải thích rõ hơn điều này, đại diện Cục xuất nhập khẩu cho rằng có những dòng thuế trong WTO đã bằng 0%, không cần phải có giấy chứng nhận xuất xứ.
Mặt khác, hàng xuất khẩu đi EU có thể có một lựa chọn khác đó là hưởng ưu đãi thuế quan theo chế độ thuế quan phổ cập (GSP) của EU dành cho các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn tự chứng nhận xuất xứ cho những lô hàng mà có kim ngạch trị giá từ 6000 euro trở xuống.
Hơn nữa, bà Hiền nhấn mạnh, con số 20% chỉ là con số chung về tỷ lệ kim ngạch hàng xuất khẩu của Việt Nam được cấp C/O trong khuôn khổ EVFTA và tỷ lệ này sẽ khác nhau rất nhiều ở từng thị trường cụ thể hoặc từng mặt hàng cụ thể.
Đơn cử như hàng xuất khẩu sang thị trường Luxembourg thì tỷ lệ này là 77%, sang thị trường Bỉ tỷ lệ này khoảng 50%. Còn đối với từng mặt hàng cụ thể như da giày tỷ lệ trên 90% và đối với mặt hàng thủy sản là trên 77%.
Ở góc độ doanh nghiệp xuất khẩu, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam nhìn nhận, Hiệp định EVFTA góp phần rất tốt trong thành tích xuất khẩu của ngành da giày. Trước khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực thì tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường EU của ngành da giày chỉ chiếm vào khoảng 22 - 23% nhưng sau khi hiệp định có hiệu lực thì tỷ trọng này đã nâng lên là 26%.
Đặc biệt, theo bà Xuân, trong hai năm vừa qua khi ngành da giày chịu tác động của đại dịch Covid nên hầu như xuất khẩu vào các thị trường đều có sự suy giảm, tuy nhiên nhờ Hiệp định EVFTA ngành da giày vẫn duy trì được xuất khẩu vào thị trường EU, thậm chí năm 2021 vẫn có sự tăng trưởng.
Nhờ thế kim ngạch xuất khẩu của ngành năm 2021 vẫn đạt kế hoạch đề ra và trong thời gian 9 tháng năm 2022, tăng trưởng của thị trường EU khá tốt với mức độ 15% và hầu như xuất khẩu vào các thị trường trong khối đều tăng trưởng ở mức 15 - 20%.
ĐẨY MẠNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP TẬN DỤNG ƯU ĐÃI, TRÁNH RỦI RO
Để có thể gia tăng được tỷ lệ về xuất xứ đối với hàng Việt Nam xuất khẩu đi EU cao hơn nữa, bà Hiền cho biết Bộ Công Thương hiện đang tiếp tục tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về xuất xứ hàng hóa để tạo hành lang pháp lý và có những quy định cụ thể, minh bạch liên quan đến vấn đề này và trong đó những chế tài xử phạt cũng đang rất được chú trọng.
Đồng thời, Bộ đang nỗ lực và tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan như Tổng cục Hải quan, các Hiệp hội ngành hàng tập huấn, đào tạo kịp thời, vừa uốn nắn và vừa hướng dẫn doanh nghiệp đáp ứng được đúng những quy định khắt khe của EU.
Bên cạnh đó, phối hợp với cơ quan hải quan của nước nhập khẩu để trong trường hợp nếu như có đề nghị xác minh xuất xứ thì Bộ Công Thương sẽ đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp chứng minh hàng hóa có xuất xứ trong trường hợp đúng là hàng hóa đó đáp ứng theo quy định của EVFTA.
Ngược lại, trong trường hợp hàng hóa không đáp ứng xuất xứ thì Bộ Công Thương sẽ cùng với EU tìm hiểu và có những biện pháp kịp thời nhằm chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
Một biện pháp quan trọng nữa, Bộ đang rất tích cực phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp tham vấn và đề xuất đưa ra được quy tắc xuất xứ phù hợp với thực tế của doanh nghiệp cũng như quy trình sản xuất hiện nay tại Việt Nam.
Biện pháp nữa mà quan trọng không kém là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc tiếp nhận và xử lý các vướng mắc cũng như giải đáp và tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp xuất khẩu đi EU liên quan đến xuất xứ hàng hóa.
Bà Xuân cũng kiến nghị, để gia tăng tận dụng những ưu đãi trong EVFTA, Nhà nước và các địa phương cần tạo điều kiện mở rộng phát triển vùng nguyên liệu với những công nghệ mới, công nghệ thân thiện với môi trường đáp ứng được các tiêu chí của EU.
Có chính sách thu hút nguồn lực công nghệ cao từ EU, hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực về thiết kế nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đồng thời trang bị những kiến thức, nâng cao năng lực để mở rộng dư địa thị trường và cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần có sự chủ động tận dụng chứng nhận xuất xứ ưu đãi và những ưu đãi khác của Hiệp định EVFTA.