Giá tham chiếu sau ngày chốt quyền, giá trị quyền mua
Quyền mua là loại chứng khoán mua bán được, vậy giá trị quyền mua được tính như thế nào?
Quyền mua là loại chứng khoán mua bán được, vậy giá trị quyền mua được tính như thế nào?
Tính giá trị quyền mua
Ví dụ ngày 11/10/2006 là ngày giao dịch không hưởng quyền phát hành thêm 5.650.720 cổ phiếu REE theo tỉ lệ 5:1. nhà đầu tư sở hữu 5 cổ phiếu thì được mua thêm 1 cổ phiếu mới với giá bằng 75% giá đóng cửa ngày giao dịch liền trước. Ta có thể tính giá tham chiếu vào ngày 11/10/2006. Và tính giá trị quyền mua vào ngày đó.
Ngày 10/10/2006, REE có giá đóng cửa là 94.000 đồng/cổ phiếu, vậy giá phát hành của REE cho cổ đông hiện hữu là: 0.75 x 94.000=70.500 đồng/cổ phiếu. Theo quy định quyền mua, cứ ứng với mỗi 5 quyền mua sẽ được mua 1 cổ phiếu mới với giá 70.500 đồng. Để có 5 quyền mua, nhà đầu tư phải mua 5 cổ phiếu với giá 5 x 94.000 đồng = 470.000 đồng.
Với 5 quyền mua vừa có được, nhà đầu tư sẽ mua được 1 cổ phiếu mới với giá 70.500đ. Như vậy, nhà đầu tư có tất cả 6 cổ phiếu. 6 cổ phiếu này đều không còn quyền mua kèm theo với tổng số tiền bỏ ra 470.000 + 70.500 = 540.500 đồng. Như vậy, giá tham chiếu của REE tại ngày 11/10/2006 của mỗi cổ phiếu là 540.500/6 = 90.000 đồng/cổ phiếu.
Giá trị của mỗi quyền mua tại ngày đó là: 94.000 - 90.000 = 4000 đồng. Trong thời gian chuyển nhượng quyền mua, nếu giá thị trường của REE thay đổi sẽ làm cho giá trị quyền mua thay đổi theo. Giá tăng thì quyền mua tăng và ngược lại tương ứng mức độ tăng giảm của cổ phiếu.
Trong ngày giao dịch không có quyền mua, giá cổ phiếu sẽ rớt xuống một mức giá trị chính bằng giá trị của quyền mua. Tại Việt Nam, nếu tổ chức phát hành có phát hành bổ sung cổ phiếu mới thì giá cổ phiếu trên thị trường sẽ được điều chỉnh ngay theo mức giá mới của cổ phiếu.
Cổ đông hiện hữu vẫn không bị thiệt vì phần giá trị cổ phiếu cũ mất đi cũng chính bằng giá trị của quyền mua mà họ đã nhận được trước đó. Trường hợp có một số cổ phiếu không còn quyền (do cổ đông nắm giữ cổ phiếu đó đã tách quyền mua ra để bán riêng trên thị trường) thì số cổ phiếu này cũng vẫn được giao dịch bình thường trên thị trường.
Tuy nhiên khi thực hiện thủ tục thanh toán bù trừ thì bộ phận thanh toán bù trừ chứng khoán sẽ trừ lại của người bán cổ phiếu đó một khoản tiền đúng bằng giá trị của quyền mua mà họ đã tách ra để bán riêng trên thị trường chứng khoán.
Nghiệp vụ tách gộp cổ phiếu
Về bản chất, tách và gộp cổ phiếu là việc làm tăng hoặc giảm số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty mà không làm thay đổi vốn điều lệ, vốn cổ phần hay toàn bộ giá trị thị trường tại thời điểm tách hoặc gộp.
Mục đích của nghiệp vụ tách cổ phiếu sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành và làm giảm mệnh giá cổ phiếu tương ứng với tỉ lệ tách. Do đó giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ giảm tương ứng.
Việc tách cổ phiếu thường được thực hiện khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng quá cao làm cho các giao dịch sẽ khó thực hiện, làm giảm tính thanh khoản. Mặt khác, sau khi tách cổ phiếu, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty, qua đó góp phần làm hạn chế khả năng bị thâu tóm.
Ví dụ, công ty X có 2 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 20 tỉ đồng) và giá thị trường tại thời điểm hiện tại là 200.000 đồng/cổ phiếu. Giá trị vốn hóa thị trường của công ty là 2 triệu cổ phiếu x 200.000 đồng/cổ phiếu = 400 tỉ đồng.
Công ty tiến hành tách cổ phiếu theo tỉ lệ 1:2 (người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 4 triệu cổ phiếu mệnh giá 5.000đ/cổ phiếu. Tổng giá trị niêm yết vẫn là 20 tỉ đồng nhưng giá thị trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 100.000 đồng/cổ phiếu. Giá thị trường của công ty vẫn là 400 tỉ đồng.
Trường hợp gộp cổ phiếu sẽ làm giảm số lượng cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá cổ phiếu tăng lên và giá thị trường của cổ phiếu cũng tăng lên tương ứng với tỉ lệ gộp. Giả sử công ty X trên, nhưng thị giá của cổ phiếu là 11.000 đồng/cổ phiếu, giá trị niêm yết của công ty vẫn là 20 tỉ đồng, giá thị trường của công ty là 22 tỉ đồng.
Để tránh trường hợp thị giá của cổ phiếu xuống thấp hơn mệnh giá, công ty quyết định gộp cổ phiếu theo tỉ lệ 2:1 (2 cổ phiếu cũ thành 1 cổ phiếu mới). Khi đó mệnh giá cổ phiếu của công ty là 20.000 đồng/cổ phiếu, số lượng là 1 triệu cổ phiếu, giá trị niêm yết của công ty là 1 triệu cổ phiếu x 20.000 đồng/cổ phiếu = 20 tỉ đồng. Thị giá cổ phiếu của công ty X là 22.000 đồng/cổ phiếu. Cả giá trị niêm yết và thị giá của công ty không thay đổi.
Về hai nghiệp vụ này hiện nay chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhiều nhà đầu tư còn nhầm lẫn giữa việc chia tách với chia cổ phiếu thưởng và với mua cổ phiếu theo quyền mua ưu tiên do các hình thức này đều làm tăng số cổ phiếu và làm điểu chỉnh giảm giá cổ phiếu.
Tính giá trị quyền mua
Ví dụ ngày 11/10/2006 là ngày giao dịch không hưởng quyền phát hành thêm 5.650.720 cổ phiếu REE theo tỉ lệ 5:1. nhà đầu tư sở hữu 5 cổ phiếu thì được mua thêm 1 cổ phiếu mới với giá bằng 75% giá đóng cửa ngày giao dịch liền trước. Ta có thể tính giá tham chiếu vào ngày 11/10/2006. Và tính giá trị quyền mua vào ngày đó.
Ngày 10/10/2006, REE có giá đóng cửa là 94.000 đồng/cổ phiếu, vậy giá phát hành của REE cho cổ đông hiện hữu là: 0.75 x 94.000=70.500 đồng/cổ phiếu. Theo quy định quyền mua, cứ ứng với mỗi 5 quyền mua sẽ được mua 1 cổ phiếu mới với giá 70.500 đồng. Để có 5 quyền mua, nhà đầu tư phải mua 5 cổ phiếu với giá 5 x 94.000 đồng = 470.000 đồng.
Với 5 quyền mua vừa có được, nhà đầu tư sẽ mua được 1 cổ phiếu mới với giá 70.500đ. Như vậy, nhà đầu tư có tất cả 6 cổ phiếu. 6 cổ phiếu này đều không còn quyền mua kèm theo với tổng số tiền bỏ ra 470.000 + 70.500 = 540.500 đồng. Như vậy, giá tham chiếu của REE tại ngày 11/10/2006 của mỗi cổ phiếu là 540.500/6 = 90.000 đồng/cổ phiếu.
Giá trị của mỗi quyền mua tại ngày đó là: 94.000 - 90.000 = 4000 đồng. Trong thời gian chuyển nhượng quyền mua, nếu giá thị trường của REE thay đổi sẽ làm cho giá trị quyền mua thay đổi theo. Giá tăng thì quyền mua tăng và ngược lại tương ứng mức độ tăng giảm của cổ phiếu.
Trong ngày giao dịch không có quyền mua, giá cổ phiếu sẽ rớt xuống một mức giá trị chính bằng giá trị của quyền mua. Tại Việt Nam, nếu tổ chức phát hành có phát hành bổ sung cổ phiếu mới thì giá cổ phiếu trên thị trường sẽ được điều chỉnh ngay theo mức giá mới của cổ phiếu.
Cổ đông hiện hữu vẫn không bị thiệt vì phần giá trị cổ phiếu cũ mất đi cũng chính bằng giá trị của quyền mua mà họ đã nhận được trước đó. Trường hợp có một số cổ phiếu không còn quyền (do cổ đông nắm giữ cổ phiếu đó đã tách quyền mua ra để bán riêng trên thị trường) thì số cổ phiếu này cũng vẫn được giao dịch bình thường trên thị trường.
Tuy nhiên khi thực hiện thủ tục thanh toán bù trừ thì bộ phận thanh toán bù trừ chứng khoán sẽ trừ lại của người bán cổ phiếu đó một khoản tiền đúng bằng giá trị của quyền mua mà họ đã tách ra để bán riêng trên thị trường chứng khoán.
Nghiệp vụ tách gộp cổ phiếu
Về bản chất, tách và gộp cổ phiếu là việc làm tăng hoặc giảm số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty mà không làm thay đổi vốn điều lệ, vốn cổ phần hay toàn bộ giá trị thị trường tại thời điểm tách hoặc gộp.
Mục đích của nghiệp vụ tách cổ phiếu sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành và làm giảm mệnh giá cổ phiếu tương ứng với tỉ lệ tách. Do đó giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ giảm tương ứng.
Việc tách cổ phiếu thường được thực hiện khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng quá cao làm cho các giao dịch sẽ khó thực hiện, làm giảm tính thanh khoản. Mặt khác, sau khi tách cổ phiếu, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty, qua đó góp phần làm hạn chế khả năng bị thâu tóm.
Ví dụ, công ty X có 2 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 20 tỉ đồng) và giá thị trường tại thời điểm hiện tại là 200.000 đồng/cổ phiếu. Giá trị vốn hóa thị trường của công ty là 2 triệu cổ phiếu x 200.000 đồng/cổ phiếu = 400 tỉ đồng.
Công ty tiến hành tách cổ phiếu theo tỉ lệ 1:2 (người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 4 triệu cổ phiếu mệnh giá 5.000đ/cổ phiếu. Tổng giá trị niêm yết vẫn là 20 tỉ đồng nhưng giá thị trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 100.000 đồng/cổ phiếu. Giá thị trường của công ty vẫn là 400 tỉ đồng.
Trường hợp gộp cổ phiếu sẽ làm giảm số lượng cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá cổ phiếu tăng lên và giá thị trường của cổ phiếu cũng tăng lên tương ứng với tỉ lệ gộp. Giả sử công ty X trên, nhưng thị giá của cổ phiếu là 11.000 đồng/cổ phiếu, giá trị niêm yết của công ty vẫn là 20 tỉ đồng, giá thị trường của công ty là 22 tỉ đồng.
Để tránh trường hợp thị giá của cổ phiếu xuống thấp hơn mệnh giá, công ty quyết định gộp cổ phiếu theo tỉ lệ 2:1 (2 cổ phiếu cũ thành 1 cổ phiếu mới). Khi đó mệnh giá cổ phiếu của công ty là 20.000 đồng/cổ phiếu, số lượng là 1 triệu cổ phiếu, giá trị niêm yết của công ty là 1 triệu cổ phiếu x 20.000 đồng/cổ phiếu = 20 tỉ đồng. Thị giá cổ phiếu của công ty X là 22.000 đồng/cổ phiếu. Cả giá trị niêm yết và thị giá của công ty không thay đổi.
Về hai nghiệp vụ này hiện nay chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhiều nhà đầu tư còn nhầm lẫn giữa việc chia tách với chia cổ phiếu thưởng và với mua cổ phiếu theo quyền mua ưu tiên do các hình thức này đều làm tăng số cổ phiếu và làm điểu chỉnh giảm giá cổ phiếu.