Giới đầu tư Phố Wall lại lo kinh tế Mỹ
Khác với những phiên trước, lần đi giật lùi này của Phố Wall lại xuất phát từ nỗi lo của nhà đầu tư về thực trạng kinh tế Mỹ
Phiên giao dịch đầu tiên trong tháng 7 (2/7) của thị trường chứng khoán Mỹ đã khép lại với kết quả trồi sụt nhẹ giữa các chỉ số chính. Tuy nhiên, khác với những phiên trước, lần đi giật lùi này của Phố Wall lại xuất phát từ nỗi lo của nhà đầu tư về thực trạng kinh tế Mỹ.
Theo công bố của một tổ chức thương mại, lĩnh vực sản xuất của Mỹ đã giảm sút trong tháng 6 vừa qua, lần đầu tiên trong khoảng 3 năm qua. Thông tin này ngay lập tức tác động trái chiều lên thị trường chứng khoán Mỹ, xóa nhòa những tín hiệu tích cực vừa xuất hiện ở châu Âu cuối tuần trước.
Mở phiên, các chỉ số tăng điểm khá mạnh theo đà tăng hơn 2% trong phiên chốt tuần trước, nhưng sau khi có báo cáo trên, mức tăng chững lại và hạ nhiệt dần. Riêng, chỉ số công nghiệp Dow Jones chốt phiên chuyển sang hướng giảm điểm, ngược chiều với hai chỉ số S&P 500 và Nasdaq.
Cụ thể, chốt phiên giao dịch, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 8,70 điểm, tương ứng 0,07%, xuống còn 12.871,39 điểm. Chỉ số S&P 500 ngược dòng tăng nhẹ 3,35 điểm, tương ứng 0,25% lên 1.365,51 điểm. Chỉ số Nasdaq Composite tăng 16,18 điểm, tương ứng 0,55%, lên 2.951,23 điểm.
Trong số các cổ phiếu thuộc chỉ số Dow Jones, cổ phiếu của công ty hóa chất DuPont giảm mạnh nhất, với 2,3%, tương ứng 1,14 USD, xuống còn 49,43 USD. Cổ phiếu của một loạt đại gia liên quan tới lĩnh vực sản xuất của Mỹ như Caterpillar, General Electric, Alcoa, Exxon Mobile... cũng giảm giá.
Lợi suất trái chiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Mỹ giảm xuống 1,59% trong ngày, từ mức 1,63% trong phiên cuối tuần trước. Giá dầu thô thế giới giảm khá mạnh 1,21 USD xuống còn 83,75 USD/thùng.
Tình trạng tăng giảm trái chiều của thị trường chứng khoán Mỹ phiên hôm qua cho thấy nhà đầu tư Phố Wall bắt đầu quay trở lại, tập trung sự quan tâm vào nền kinh tế đầu tàu thế giới, thay vì nợ công châu Âu như trước đây. Hôm qua, các thị trường châu Âu vẫn giữ vững đà tăng mạnh, hơn 1%.
Theo công bố của một tổ chức thương mại, lĩnh vực sản xuất của Mỹ đã giảm sút trong tháng 6 vừa qua, lần đầu tiên trong khoảng 3 năm qua. Thông tin này ngay lập tức tác động trái chiều lên thị trường chứng khoán Mỹ, xóa nhòa những tín hiệu tích cực vừa xuất hiện ở châu Âu cuối tuần trước.
Mở phiên, các chỉ số tăng điểm khá mạnh theo đà tăng hơn 2% trong phiên chốt tuần trước, nhưng sau khi có báo cáo trên, mức tăng chững lại và hạ nhiệt dần. Riêng, chỉ số công nghiệp Dow Jones chốt phiên chuyển sang hướng giảm điểm, ngược chiều với hai chỉ số S&P 500 và Nasdaq.
Cụ thể, chốt phiên giao dịch, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 8,70 điểm, tương ứng 0,07%, xuống còn 12.871,39 điểm. Chỉ số S&P 500 ngược dòng tăng nhẹ 3,35 điểm, tương ứng 0,25% lên 1.365,51 điểm. Chỉ số Nasdaq Composite tăng 16,18 điểm, tương ứng 0,55%, lên 2.951,23 điểm.
Trong số các cổ phiếu thuộc chỉ số Dow Jones, cổ phiếu của công ty hóa chất DuPont giảm mạnh nhất, với 2,3%, tương ứng 1,14 USD, xuống còn 49,43 USD. Cổ phiếu của một loạt đại gia liên quan tới lĩnh vực sản xuất của Mỹ như Caterpillar, General Electric, Alcoa, Exxon Mobile... cũng giảm giá.
Lợi suất trái chiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Mỹ giảm xuống 1,59% trong ngày, từ mức 1,63% trong phiên cuối tuần trước. Giá dầu thô thế giới giảm khá mạnh 1,21 USD xuống còn 83,75 USD/thùng.
Tình trạng tăng giảm trái chiều của thị trường chứng khoán Mỹ phiên hôm qua cho thấy nhà đầu tư Phố Wall bắt đầu quay trở lại, tập trung sự quan tâm vào nền kinh tế đầu tàu thế giới, thay vì nợ công châu Âu như trước đây. Hôm qua, các thị trường châu Âu vẫn giữ vững đà tăng mạnh, hơn 1%.
Thị trường | Chỉ số | Phiên trước | Đóng cửa | Tăng/giảm (điểm) | Tăng/giảm (%) |
Mỹ | Dow Jones | 12.880,09 | 12.871,39 | 8,70 | 0,07 |
S&P 500 | 1.362,16 | 1.365,51 | 3,35 | 0,25 | |
Nasdaq | 2.935,05 | 2.951,23 | 16,18 | 0,55 | |
Anh | FTSE 100 | 5.571,15 | 5.640,64 | 69,49 | 1,25 |
Pháp | CAC 40 | 3.196,65 | 3.240,20 | 43,55 | 1,36 |
Đức | DAX | 6.416,28 | 6.496,08 | 79,80 | 1,24 |
Nhật Bản | Nikkei 225 | 9.006,78 | 9.003,48 | 3,30 | 0,04 |
Hồng Kông | Hang Seng | 19.441,46 | |||
Trung Quốc | Shanghai Composite | 2.225,43 | 2.226,11 | 0,68 | 0,03 |
Đài Loan | Taiwan Weighted | 7.296,28 | 7.345,16 | 48,88 | 0,67 |
Hàn Quốc | KOSPI Composite | 1.854,01 | 1.851,65 | 2,36 | 0,13 |
Singapore | Straits Times | 2.878,45 | 2.910,59 | 32,14 | 1,12 |
Nguồn: CNBC, Market Watch. |