11:07 07/06/2023

Khơi thông pháp lý, tập trung thực hiện 5 giải pháp, tạo động lực cho chương trình mục tiêu quốc gia

Như Nguyệt

Năm 2023, phần vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia mới đạt 17,01%. Sự chậm trễ do nhiều nguyên nhân trong đó có sự chồng chéo, xung đột của các văn bản pháp luật….

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang phát biểu tại phiên chất vấn sáng 7/6. Ảnh: Quochoi.vn
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang phát biểu tại phiên chất vấn sáng 7/6. Ảnh: Quochoi.vn

Sáng 7/6, tại phiên chất vấn, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang cho rằng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc – Hầu A Lềnh đã trả lời trực tiếp, thẳng thắn, trách nhiệm và đầy đủ ý kiến của các đại biểu Quốc hội.

Về Chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Phó Thủ tướng nhận khuyết điểm trước Quốc hội và bà con đang sống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vì Chương trình này và 2 Chương trình mục tiêu quốc gia còn lại thực hiện chậm.

SỬA ĐỔI NGHỊ ĐỊNH 27, DỰ KIẾN BAN HÀNH TRƯỚC NGÀY 15/6

Phó Thủ tướng cho biết, theo số liệu, đến 31/5/2023, phần vốn của năm 2022 cho chương trình này chỉ đạt 58,49% vốn đầu tư phát triển, vốn của năm 2023 chỉ đạt được 17,01% vốn đầu tư phát triển. Chúng ta chỉ còn 2,5 năm để thực hiện giai đoạn 1 của dự án này, hơn nữa, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thụ hưởng chương trình này đang sống ở biên cương, phên giậu của đất nước, đang chịu nhiều khó khăn để gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. 

Phó Thủ tướng nêu rõ, có một số vướng mắc chính trong việc triển khai chương trình. Trước hết, số lượng văn bản ban hành rất nhiều, riêng Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được tích hợp từ 118 chính sách, 10 dự án, 22 tiểu dự án, 55 nội dung thành phần, chịu sự quản lý của 23 Bộ, ngành trung ương, nên còn nhiều chồng chéo, xung đột.

Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 71, trong khoảng hơn 2 tháng, 18/18 bộ ngành đã có 59 văn bản trả lời, giải quyết được 261/339 thắc mắc của các cơ quan, địa phương. Với các nội dung còn lại, Chính phủ đang chuẩn bị sửa đổi Nghị định 27, ban hành, điều chỉnh một số thông tư. Việc sửa đổi Nghị định 27 đang được gấp rút tiến hành, ngay trong hôm nay Chính phủ sẽ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp giải trình báo cáo của Chính phủ, cố gắng ban hành trước ngày 15/6.

Thực tế ở địa phương cũng cho thấy, các địa phương không giải ngân được nhiều vốn trung ương, nhưng giải ngân được tỷ lệ lớn vốn đối ứng địa phương. Điều đó cho thấy những quy định còn vướng mắc, gây khó khăn, nên việc tháo gỡ ở các quy định này sẽ tạo được tác động tốt.

Thời gian tới, với sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh tháo gỡ, hoàn thiện cơ sở pháp lý vững chắc để Chương trình được giải ngân đúng theo yêu cầu.

5 GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ, TỒN TẠI

Kết luận nội dung chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực dân tộc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, với đặc thù là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và nhất quán về chính sách dân tộc theo nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; vấn đề dân tộc và công tác dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Ảnh: Quochoi.vn
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Ảnh: Quochoi.vn

Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, qua Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2021-2022 và báo cáo của Ủy ban Dân tộc gửi đến các đại biểu Quốc hội về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn và diễn biến của phiên chất vấn cho thấy, thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, công tác dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện, tạo nên nhiều chuyển biến trong đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi nước ta; góp phần tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc; củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nhất là việc chậm triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia. Một số văn bản hướng dẫn ban hành chậm hoặc thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng, chưa có định mức cụ thể. 

Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, các Bộ trưởng, Trưởng ngành có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế. 

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh cần tập trung thực hiện 5 giải pháp :

t là, quyết liệt triển khai các giải pháp để thực hiện hiệu quả Kết luận 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội; nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc để thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng quan trọng về chính sách dân tộc cho giai đoạn 2021-2030.

Hai là, huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó, tập trung vào địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn và có khó khăn đặc thù…

Ba là, sớm hoàn thành việc rà soát, tổng hợp, sửa đổi, bổ sung danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I giai đoạn 2021-2025; lập danh sách các xã đạt chuẩn nông thôn mới, các xã, thôn chia tách, sáp nhập hoặc đề nghị điều chỉnh tên gọi; trên cơ sở đó, nghiên cứu, đề xuất giải pháp cụ thể đối với việc phân định vùng dân tộc và miền núi theo trình độ phát triển phù hợp với thực tiễn và các quy định hiện hành.

Bốn là, tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số chưa có hoặc thiếu đất ở, đất sản xuất.

Năm là, hạn chế tối đa chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích ngoài lâm nghiệp; hoàn thành việc giao đất, giao rừng, cho thuê rừng gắn với cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp, bảo đảm tất cả diện tích rừng và đất được quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp phải được giao, cho thuê đến những chủ rừng thực sự.