13:48 02/06/2007

Làm sao cải thiện môi trường kinh doanh?

Thùy Trang - Việt Tuấn

Những góp ý của đại diện khối kinh tế tư nhân cho việc cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh tại Việt Nam

Những vấn đề như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, sở hữu trí tuệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... được các đại diện doanh nghiệp quan tâm nhấn mạnh và là những vấn đề cần được giải quyết thông qua công cuộc cải cách kinh tế nói chung - Ảnh: Việt Tuấn.
Những vấn đề như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, sở hữu trí tuệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... được các đại diện doanh nghiệp quan tâm nhấn mạnh và là những vấn đề cần được giải quyết thông qua công cuộc cải cách kinh tế nói chung - Ảnh: Việt Tuấn.
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam 2007, một hoạt động của Hội nghị CG, đã được tổ chức ngày 30/5/2007 giữa đại diện của cộng đồng các doanh nghiệp và Chính phủ. Đây là diễn đàn đầu tiên được tổ chức sau thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tập trung vào nội dung việc triển khai thực hiện các cam kết WTO.

Đa số các ý kiến tại Diễn đàn đều cho rằng việc trở thành thành viên chính thức của WTO giúp Việt Nam được bảo vệ pháp lý trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tới các thị trường xuất khẩu chính của thế giới, đồng thời cũng làm thay đổi cơ bản hệ thống pháp luật trong nước.

Vấn đề đặt ra là trong quá trình thực hiện cam kết, làm thế nào để tránh xảy ra tình trạng môi trường kinh doanh đối với đầu tư nước ngoài trở nên khó khăn hơn? Cụ thể hơn, những vấn đề như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, sở hữu trí tuệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... được các đại diện doanh nghiệp quan tâm nhấn mạnh và là những vấn đề cần được giải quyết thông qua công cuộc cải cách kinh tế nói chung.

Chúng tôi xin giới thiệu những góp ý của đại diện khối kinh tế tư nhân cho việc cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh. 

Nhà đầu tư nước ngoài cần một lộ trình tham gia cổ phần hóa

(Ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu - EuroCham)

“Các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang mong muốn được hiểu rõ biểu thời gian cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình cổ phần hoá đối với một số lĩnh vực quan trọng như viễn thông.

Để các nhà đầu tư nước ngoài có thể chuẩn bị tốt nhất cho việc tham gia vào lĩnh vực viễn thông và các lĩnh vực khác, EuroCham cùng các thành viên của mình sẽ đánh giá cao nếu như Chính phủ Việt Nam có thể đưa ra một lộ trình cụ thể cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian sớm nhất.

Một lĩnh vực có tầm quan trọng gia tăng đối với việc tiếp tục tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là nhân sự, giáo dục và đào tạo. Các công ty đã và đang gặp phải những khó khăn trong việc tuyển dụng và duy trì các nhân viên Việt Nam có chuyên môn cao. Sự gia tăng nhanh chóng về yêu cầu lương trong nước trong nhiều lĩnh vực và việc thiếu nhân viên từ các nước ASEAN khác và thực tế này có thể gây bất ổn trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

Để có thể khắc phục vấn đề này, chúng tôi xin đề xuất bãi bỏ các hạn chế đối với việc thành lập các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích tích cực đối với những đối tượng cung cấp đào tạo có uy tín thành lập cơ sở tại Việt Nam.

EuroCham sẵn sàng đóng vai trò chủ đạo trong việc thành lập một uỷ ban được thành lập với sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam và có sự tham gia của những đối tác quan trọng trên thị trường và Công ty tài chính Quốc tế nhằm tập trung vào các vấn đề về nhân sự, giáo dục và đào tạo.

Cùng với việc cải cách pháp lý với tốc độ cao sẽ có các rủi ro về văn bản pháp lý yếu kém hoặc không rõ ràng. Mặc dù Luật Công chứng đã có hiệu lực kể từ cuối năm 2006, các hướng dẫn thực hiện vẫn chưa được ban hành, hậu quả là vai trò của công chứng viên Nhà nước vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng chậm trễ đối với giao dịch và tạo ra sự thiếu chắc chắn trong một số trường hợp đối với khả năng thi hành các giao dịch đã được ký kết.

Liên quan đến Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, rất nhiều trong số xấp xỉ 6.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam có lẽ sẽ muốn đăng ký lại theo Luật Đầu tư và một số doanh nghiệp sẽ muốn chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.

Trên thực tế, trong khi việc chuyển đổi hình thức từ công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần là tương đối đơn giản nhưng việc đăng ký lại một công ty liên doanh theo hình thức công ty TNHH hoặc chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần lại cực kỳ khó khăn. EuroCham sẽ đánh giá cao nếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân nhắc khả năng gia hạn đối với thời hạn hiện tại là tháng 6 năm 2008 cho việc đăng ký lại, và thực hiện một thủ tục chuyển đổi hình thức mang tính tự động trong một giới hạn thời gian nhất định.”

Tính cạnh tranh của môi trường đầu tư

(Ông Cho Gunwhan, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc - KorCham)

“Chúng tôi thấy có một số vấn đề khá quan trọng để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam.

Trước hết, chúng tôi đề nghị Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh quá trình ban hành và thi hành luật và các quy định đồng bộ với các cam kết WTO của Việt Nam. Nhiều quy định trong lĩnh vực này đã được xây dựng, nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy các văn bản dưới luật có nhiều điểm mơ hồ và đôi khi mâu thuẫn nhau trong nhiều vấn đề quan trọng. Vì thế chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phổ biến các thông tin liên quan đến WTO cho các cán bộ Nhà nước trực tiếp giao dịch với doanh nghiệp.

Và chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn nữa trong việc phác thảo kế hoạch chi tiết trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng công nghiệp. Chúng tôi hiểu rằng kế hoạch thì lúc nào cũng sẵn có nhưng khi các nhà đầu tư quan tâm đến Việt Nam nhiều hơn thì một kế hoạch khả thi đi kèm với một kế hoạch tài chính chắc chắn sẽ rất cần thiết.Chúng tôi cho rằng việc thành lập một cơ quan điều phối trung ương giám sát sự phát triển kinh tế sẽ thực sự hữu ích.

Từ những kinh nghiệm phát triển kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc, chúng tôi hiểu rằng không dễ đáp ứng mọi yêu cầu và nhu cầu của nhà đầu tư song song với việc duy trì đà tăng trưởng.

Cuối cùng, chúng tôi muốn đề cập đến điều kiện sinh sống của cộng đồng doanh nhân nước ngoài tại Việt Nam. Mặc dù mức sống của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam được cải thiện tốt hơn nhiều trong những năm gần đây nhưng điều kiện sống ở Việt Nam cần được cải thiện hơn nữa. Các quốc gia láng giềng đã thực hiện về giáo dục, y tế, an toàn giao thông, nhà ở... là những ví dụ mà cộng đồng doanh nhân nước ngoài ở Việt Nam so sánh và mong muốn có sự cải thiện hơn nữa.

Chúng tôi xin đề xuất thành lập một nhóm công tác về vấn đề này nhằm xác định và đề xuất với Chính phủ để Việt Nam có thể trở thành một điểm đến đầu tư thân thiện và hấp dẫn hơn với người nước ngoài.”

Phòng bệnh hơn chữa bệnh

(Bà J. Tran, Phó chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ - AmCham)

“Chương trình giám sát nhập khẩu của Hoa Kỳ bắt đầu từ ngày 11/1/2007 và có nguy cơ Bộ Thương mại Hoa Kỳ tự khởi xướng các cuộc điều tra chống phá giá. Đã xuất hiện mối quan ngại thật sự rằng Chương trình sẽ tạo ra nhiều sự bất ổn và rủi ro kinh doanh có thể làm nản lòng việc xuất khẩu các sản phẩm này từ Việt Nam.

Đáp lại mối quan ngại này, Bộ Thương mại cùng với Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã khởi xướng hàng loạt các cuộc tham khảo ý kiến với các doanh nghiệp dệt may trong nước và quốc tế và đã quyết định thành lập một hệ thống cấp phép xuất khẩu có thể bảo đảm một môi trường có thể dự đoán được cho việc buôn bán hàng dệt may Hoa Kỳ-Việt Nam, tạo lòng tin cho các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ và các nhà bán lẻ, cũng như các nhà cung cấp tại Việt Nam.

AmCham ghi nhận và đánh giá cao các cuộc tham khảo ý kiến mà Bộ Thương mại đã tiến hành với các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài về việc xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ trong những tháng đầu năm nay.

Chúng tôi cũng hoan nghênh tuyên bố vào tháng 5 vừa qua nói rằng Công ty Microsoft đã ký kết nhiều thoả thuận lớn về nhượng quyền và đào tạo với các cơ quan của Việt Nam và các doanh nghiệp Nhà nước, điều đó chứng tỏ một mặt Việt Nam quyết tâm xoá bỏ nạn ăn cắp bản quyền, mặt khác mở đường cho sự phát triển ngành công nghệ thông tin liên lạc của Việt Nam.

Việt Nam cần có thêm những biện pháp nhằm cải thiện việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Nạn ăn cắp địa chỉ giao thức Internet (IP) đang là một vấn đề toàn cầu kìm hãm đầu tư và phát minh sáng chế, đe doạ sức khoẻ cộng đồng và an ninh công cộng và làm giảm nguồn thu của Nhà nước.

AmCham sẽ tiếp tục làm việc với Việt Nam về vấn đề nâng cao nhận thức về lợi ích của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ quan trọng này. ở đây, “một lạng phòng bệnh bằng một cân chữa bệnh”.

Ngành dệt may với thách thức hội nhập

(Ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may thêu đan Tp.HCM)

“Việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nên một cơ hội rất lớn để ngành dệt may phát triển; kim ngạch xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2007 của cả nước đạt 2.198 triệu USD, là một trong hai ngành có kim ngạch xuất khẩu vượt mức 2 tỷ USD trong 4 tháng đã nói lên điều này. Trong đó, riêng Tp.HCM đã có mức đóng góp khoảng 30 % vào tổng năng lực của toàn ngành.

Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì tốc độ phát triển bền vững và tạo công ăn việc làm cho trên 2 triệu lao động trong cả nước, ngành dệt may cũng còn rất nhiều vấn đề trăn trở và phải tốn nhiều công sức để vượt qua.

Trước hết là vấn đề chất lượng nguồn nhân lực. Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động, do vậy chất lượng của nguồn lực lao động là một nhân tố mang tính sống còn cho ngành. Việc nâng cao chất lượng lao động, đặc biệt là lực lượng quản lý cấp trung gian sẽ góp phần hết sức quan trọng trong việc nâng cao được giá trị gia tăng, cải thiện mức thu nhập cho người lao động. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động này còn giúp ngành dệt may đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động, góp phần thoát khỏi tình trạng thâm dụng lao động, chỉ dựa vào nguồn lao động giá rẻ.

Trong điều kiện hiện nay, những trung tâm tư nhân, hoạt động tự cân đối thu chi và phải tự đầu tư mọi chi phí không khỏi gặp khó khăn do chi phí hoạt động cao trong khi đó mức phí đào tào lại phải thấp để cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thể tham gia. Đây là một điều khiến chúng tôi thật sự lo lắng về khả năng tiếp tục công việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành dệt may.

Vì vậy chúng tôi kiến nghị Chính phủ cũng như các tổ chức quốc tế có chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư nhiều hơn vào công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may, đặc biệt là đào tạo trong lĩnh vực thiết kế, điều hành sản xuất, marketing để nâng cao năng suất lao động và sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.

Việc Hoa Kỳ đưa ra cơ chế giám sát hàng dệt may xuất từ Việt Nam cũng đang tạo ra sự lo lắng cho cả ngành dệt may Việt Nam. Chương trình này có nhiều điều bất hợp lý.

Thứ nhất, ngành dệt may Việt Nam chỉ mới đứng thứ 9 về số lượng và thứ 6 về giá trị, trong khi đó, trừ Trung Quốc là nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ đang bị áp đặt chính sách tự vệ, tất cả các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ nhiều hơn Việt Nam đều không bị bất kỳ sự giám sát nào.

Thứ hai, với mức giá bình quân qui ra mét vuông nhập khẩu từ Việt Nam trong năm 2006 là 2,96 USD/m2, cao hơn nhiều so với mức giá nhập khẩu bình quân là 1,79 USD/m2, và cao hơn nhiều nước có mức xuất khẩu lớn vào Hoa Kỳ. Do đó không thể xem Việt Nam là nước có khả năng bán phá giá.

Thứ ba, với tỉ trọng trên 3% trong tổng trị giá hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ, ngành dệt may Việt Nam không thể nào đủ sức tạo nên một ảnh hưởng, lại càng không thể là mối nguy cơ làm hại đến nền công nghiệp dệt may của Hoa Kỳ.

Thứ tư là hàng Việt Nam xuất vào Hoa Kỳ có 95% là hàng may sẵn. Đây là những mặt hàng mà các doanh nghiệp dệt may Hoa Kỳ đã không còn sản xuất trong nhiều năm qua do chi phí cao và thiếu lao động.

Tuy vô lý nhưng chương trình này đã và đang tạo ra nhiều tác hại trực tiếp và lâu dài đến ngành dệt may Việt Nam. Nhiều khách hàng đã giảm bớt đơn hàng cũng như chuẩn bị rút khỏi Việt Nam trong trường hợp Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra những nhận xét bất lợi trong đợt giám sát đầu tiên, dự kiến vào tháng 8/2007.

Do đó, việc dừng lại chương trình này không những giúp cho ngành dệt may Việt Nam có điều kiện tiếp tục phát triển mà còn góp phần duy trì công ăn việc làm cho trên dưới 2 triệu lao động đang làm việc trong ngành, mang một ý nghĩa nhân đạo hết sức to lớn.”

Thúc đẩy triển khai cam kết về dịch vụ

(Ông Andrew Currie, Chủ tịch Phòng Thương mại Australia - AusCham)

“AusCham được khích lệ bởi việc Việt Nam thực hiện các cam kết WTO, tuy nhiên chúng tôi thấy cũng có một số lĩnh vực cần nỗ lực hơn nữa.

Việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong WTO về dịch vụ cho đến nay chưa tiến triển nhiều so với cam kết về thương mại hàng hoá. AusCham mong muốn Chính phủ Việt Nam sớm ưu tiên và thúc đẩy nhanh việc chuẩn bị các văn bản thực hiện, các nghị định và thông tư cần thiết để làm sao các cơ quan có thể thực hiện một cách tự tin liên quan đến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam, và các nhà đầu tư có thể dựa vào những quy định rõ ràng, minh bạch và nhất quán trong lĩnh vực này.

Ở đây có ba lĩnh vực chúng tôi đặc biệt mong muốn có sự chú ý từ cơ quan có thẩm quyền là Nghị định hướng dẫn các cam kết về dịch vụ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì. Điều quan trọng là Nghị định làm sao phải thể hiện chính xác các cam kết của Việt Nam trong WTO, không được thực hiện theo kiểu hồi tố. Vì thế các doanh nghiệp đã đang hoạt động rồi sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc xem xét lại và đảm bảo Việt Nam có sự linh hoạt chính sách cần thiết.

Tiếp theo là Nghị định hướng dẫn thực hiện cam kết của Việt Nam về cấp phép quyền kinh doanh Xnhập khẩu và phân phối cho các công ty nước ngoài do Bộ Thương mại chủ trì. Liên quan đến Nghị định 23/2007/NĐ-CP về cấp phép kinh doanh và phân phối vẫn chưa được thực hiện. Chúng tôi đặc biệt lo ngại gần đây giới truyền thông nói rằng Bộ Thương mại có gửi công văn cho các địa phương nói hiện Bộ Thương mại chưa xem xét cấp phép cho bất kỳ công ty có vốn nước ngoài nào để nhập khẩu và phân phối hàng hoá tại Việt Nam. AusCham mong muốn Bộ Thương mại làm rõ hơn về vấn đề này.

Cuối cùng là Nghị định hướng dẫn thực hiện cam kết của Việt Nam cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước chủ trì. Việt Nam cam kết cho phép việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam từ 1/4/2007, và Nghị định số 22/2006/NĐ-CP đã nêu rõ cam kết này. Tuy nhiên cho đến nay cam kết này vẫn chưa được thực hiện vì chưa có văn bản hướng dẫn được ban hành.

Chúng tôi mong muốn Chính phủ tạo thuận lợi cho việc ban hành văn bản quan trọng này một cách sớm nhất để giúp Việt Nam thực hiện được cam kết này mà đã bắt đầu có hiệu lực từ khoảng 8 tuần trước đây.”

Làm sao để thu hút được nhiều nhà đầu tư?

(Bà Nguyễn Mỹ Thuận, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Cần Thơ)

“Mặc dù đóng vai trò là “trung tâm động lực” của ĐBSCL nhưng cơ sở hạ tầng của Cần Thơ nói riêng cũng như của ĐBSCL nói chung còn rất nghèo nàn, phát triển chưa tương xứng với tốc độ phát triển các hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp.

Đây là một trở ngại rất lớn, không chỉ cho doanh nghiệp địa phương mà còn cả cho các nhà đầu tư từ các nơi khác đến. Doanh nghiệp địa phương hiện đang phải “gánh” những chi phí lớn (về vận tải) khiến giá thành cao và khó cạnh tranh. Các dự án về phát triển cơ sở hạ tầng của Trung ương và hàng chục dự án của địa phương được tiến hành không đồng bộ khiến cho việc đưa vào sử dụng sẽ bị chậm, kéo dài thời gian, phát sinh chi phí và kém hiệu quả.

Về mặt lưu thông hàng hoá, con đường duy nhất dẫn từ khu công nghiệp/khu chế xuất đi về trung tâm thành phố, để đưa hàng hoá về Tp.HCM và các nơi ngoại vùng đã trở nên quá nhỏ so với lưu lượng xe lưu thông hàng ngày.

Cần Thơ có hai cảng biển, đó là cảng Cần Thơ (cũ) đã được liên doanh với cảng Sài Gòn và được nâng cấp với sân cảng container nhưng hiện chỉ đón được tàu cỡ 5.000 tấn và xà lan; và chưa biết đến bao giờ mới được tiếp nhận tàu lớn trên 10.000 tấn cập bến do trở ngại luồng lạch. Còn cảng Cái Cui đang xây dựng, mới đưa vào sử dụng giai đoạn 1, chưa đủ trang bị cơ sở vật chất và phương tiện như một cảng container, logistics để đón nhận lượng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu (trên dưới 10 triệu tấn/năm) cho Cần Thơ và các tỉnh lân cận.

Sân bay Cần Thơ đang được nâng cấp, dự kiến cuối năm 2008 có thể đón máy bay hạ-cất cánh. Tuy nhiên, con đường khoảng 7km nối trung tâm thành phố với sân bay vẫn khó hoàn thành theo tiến độ đề ra cho việc khai thác sân bay Cần Thơ.

Các nhà đầu tư nước ngoài rất ngán ngại thời gian di chuyển từ Tp.HCM về Cần Thơ, phải mất từ 3 đến 4h (đôi khi còn lâu hơn) cho 170 km, với tốc độ tối đa cho xe là 80km/h. Tham dự các hoạt động về xúc tiến đầu tư vào Cần Thơ, các nhà đầu tư nước ngoài đều có hàng loạt những câu hỏi tương tự: Cần Thơ có cảng để tiếp nhận nguyên liệu không? Có sân bay để chúng tôi bay thẳng về nước không? Có bệnh viện quốc tế để chúng tôi chữa bệnh khi cần không? Có nơi giải trí, thư giãn... Cần Thơ có nguồn nhân lực biết ngôn ngữ của chúng tôi (hoặc chí ít biết tiếng Anh) và có đủ thợ có nghề mà chúng tôi đang cần không? Thời gian cấp phép đầu tư là bao lâu? Thời gian giao đất là bao lâu?...

Đó là những thách thức không dễ dàng khắc phục ngày một, ngày hai!”