06:00 07/09/2021

Ngạt thở vì Covid, bất động sản cần gấp “oxy tín dụng”

Phan Dương

Qua bốn đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19, và dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, phần lớn các doanh nghiệp bất động sản đã dần kiệt sức. Thiếu dòng tiền, nhiều chủ đầu tư giống như cơ thể bị “thiếu oxy”, đang đứng trước nguy cơ “ngạt thở”...

Ảnh minh hoạ.
Ảnh minh hoạ.

Bàn về thực trạng trên, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Tổng giám đốc Đại Phúc Land chia sẻ: Nguồn vốn chính là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp bất động sản hiện nay. Dịch bệnh kéo dài lần này tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp. Bên cạnh kế hoạch ra hàng bị ngưng trệ, việc thi công tại dự án cũng phải tạm dừng, ảnh hưởng lớn tới tiến độ xây dựng, bàn giao sản phẩm… Từ đó làm giảm sút nghiêm trọng về doanh thu và dòng tiền của các chủ đầu tư.

DOANH THU KHÔNG CÓ, RẤT KHÓ TỒN TẠI

Ngay cả không có doanh thu thì doanh nghiệp vẫn phải trả lương cho nhân viên, thanh toán tiền điện, tiền nước, hợp đồng thi công rồi chi phí đảm bảo vận hành các khu đô thị đã có người dân vào ở (theo mô hình ba tại chỗ)… Các doanh nghiệp phải tính toán đến dòng tiền xuyên suốt không chỉ ngắn hạn mà phải có giải pháp dự phòng cho thời hạn xa hơn để có thể tái khởi động khi dịch bệnh qua đi. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện không thể xoay đủ nguồn vốn để duy trì hoạt động thông thường, đặc biệt là các doanh nghiệp đang sử dụng vốn vay.

“Một số chi phí thông thường có thể trì hoãn nhưng lãi vay ngân hàng đến hạn thì dù khó khăn mấy vẫn phải trả. Điều này khiến không ít doanh nghiệp kiệt quệ. Có thể nói, dòng tiền giờ đây không khác gì nguồn ô xy đối với các doanh nghiệp bất động sản, không có nó, doanh nghiệp rất khó tồn tại. Do vậy, ngân hàng nên có giải pháp tạm thời khoanh nợ, giãn nợ và hạ lãi suất trong ngắn hạn đối với các gói đang vay, nhất là đối với các chủ đầu tư đang đầu tư và phát triển dự án”, bà Hương kiến nghị.

Đồng quan điểm, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM, cũng cho rằng thiếu dòng tiền chính là cái khó trực tiếp lớn nhất và đáng quan ngại nhất đối với doanh nghiệp bất động sản hiện nay. 

“Cái khó thiếu dòng tiền có liên quan trực tiếp đến cái khó về tín dụng, vì trong lúc này, lãi suất vay ngân hàng chưa giảm như kỳ vọng, doanh nghiệp vẫn phải trả lãi ngân hàng đều đặn hàng tháng. Mỗi một ngày qua đi, doanh nghiệp phải chạy đôn chạy đáo vay mượn, thậm chí phải vay “nóng” để trả lương, duy trì hoạt động tối thiểu và để trả lãi ngân hàng, nhất là các khoản vay tín dụng đến hạn”, ông Châu cho biết.

Theo quy chế hoạt động của ngân hàng, nếu không trả được các khoản vay đáo hạn thì ngay lập tức ngân hàng tự động chuyển sang nợ xấu, hoặc nhóm “nợ xấu hơn”. Khi đã bị xếp loại nợ xấu, nhóm nợ xấu hơn thì doanh nghiệp sẽ lâm vào bế tắc vì không thể tiếp cận được các khoản vay mới để vượt qua khó khăn. Được tiếp cận tín dụng trong lúc này hơn lúc nào hết chính là “oxy tín dụng” cấp cứu cho doanh nghiệp và phải trông cậy vào “máy trợ thở” dòng tiền từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Thực tế cho thấy, trong gần hai năm qua, các ngân hàng đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi suất cho vay cho khoảng gần 800.000 khách hàng, bao gồm các doanh nghiệp, hộ gia đình với dư nợ gần 2 triệu tỷ đồng. Trong đó, đã giảm lãi vay trực tiếp, gián tiếp cho những khoản vay cũ hay khoản vay mới cho doanh nghiệp khoảng 18.830 tỷ đồng. Tuy nhiên, hầu như các doanh nghiệp bất động sản chưa được ngân hàng xem xét hỗ trợ thỏa đáng vì vẫn bị coi là lĩnh vực kinh doanh tiềm ẩn rủi ro.

Mới đây, nhiều ngân hàng lớn lại tiếp tục giảm lãi suất cho vay (chỉ còn từ 4%/năm) và bổ sung gói tín dụng lãi suất ưu đãi hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Thế nhưng, việc giảm lãi suất này không áp dụng với các khoản vay chứng khoán, vay kinh doanh bất động sản… Vì vậy, đa số các doanh nghiệp bất động vẫn sẽ chưa thoát được tình trạng thiếu “oxy dòng tiền”.

DOANH NGHIỆP RẤT CẦN HỖ TRỢ VỐN VAY

“Do không còn tiền để trả lãi vay, trả nợ, không còn tiền để duy trì bộ máy và hỗ trợ, giữ chân người lao động, không còn tiền để cầm cự qua giai đoạn quá khó khăn này, do các dự án không thể triển khai đúng tiến độ, phải dừng công trình xây dựng, thiếu sản phẩm trong lúc thị trường bị “đứng hình”, giao dịch bị sụt giảm mạnh, không bán được sản phẩm, doanh số bán hàng bị “rơi thẳng đứng”, không thể huy động được vốn như trước đây, khiến doanh nghiệp bất động sản thiếu nguồn tiền, tương tự như cơ thể bị bệnh, thiếu oxy”, đại diện Hiệp hội Bất động sản TP.HCM lý giải.

Trước tình cảnh này, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được chủ động xem xét quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ của khách hàng (doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp bất động sản, hộ gia đình, cá nhân) và được áp dụng đối với số dư nợ phát sinh trong khoảng thời gian từ 23/1/2020 đến ngày 30/6/2022 (do Thông tư 03/2021/NHNN chỉ quy định kéo dài đến 31/12/2021). 

Hiệp hội đặc biệt nhấn mạnh việc xem xét cho khách hàng được vay vốn mới sẽ hỗ trợ thiết thực hơn cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp bất động sản bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Qua đó, giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn vay, giảm chi phí đầu vào, được tiếp cận các khoản vay mới, để có thêm thời gian dần phục hồi sản xuất, kinh doanh trong điều kiện bình thường mới.

Trên cơ sở lãi suất tiền gửi bình quân hiện nay, Hiệp hội cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước khuyến nghị các ngân hàng thương mại xem xét giảm lãi cho vay khoảng 2%/năm cho các khách hàng là hợp lý hợp tình, đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Theo lãnh đạo Hiệp hội Bất động sản TP.HCM, những giải pháp này sẽ phần nào hỗ trợ “oxy dòng tiền”, giúp các doanh nghiệp bất động sản không bị “ngẹt thở”.

Ông Nguyễn Anh Tú, Phó Tổng thư ký Hội Môi giới bất động sản Việt Nam, phân tích thêm: Nhiều nghiên cứu cho thấy, lĩnh vực bất động sản đóng góp khoảng 7-8% GDP cả nước và có liên quan đến hơn 35 ngành nghề khác nhau, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Trong bối cảnh bình thường, các chủ đầu tư phải hoạch định ngân sách đầu tư cho khoảng thời gian từ 3-5 năm, tương đương với thời gian triển khai và chào bán sản phẩm ra thị trường, nhằm đảm bảo nguồn thu cũng như khả năng trả nợ vay. Song, với tình trạng hiện nay, ngay cả khi dự án đủ điều kiện bán hàng thì doanh thu cũng gần như bằng không. Trong khi đó, họ vừa phải nỗ lực duy trì hoạt động vừa phải xoay sở đủ cách để trả lãi vay ngân hàng… 

“Trong gần hai năm qua, các doanh nghiệp bất động sản đã phải chịu rất nhiều khó khăn, cả về dịch bệnh lẫn vướng mắc từ cơ chế, chính sách. Chưa kịp phục hồi từ các đợt bùng phát dịch lần trước, hiện nay đợt bùng phát Covid-19 thứ tư nặng nề hơn càng khiến các khó khăn đó thêm trầm trọng. Nếu không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, nguy cơ “chết trên đống tài sản” là hoàn toàn có thể xảy ra với không ít doanh nghiệp bất động sản”, ông Tú thông tin.

 
Từ số liệu báo cáo của Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam, cho thấy trong nhóm trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong nước 6 tháng đầu năm nay, nhóm các doanh nghiệp bất động sản đứng ở vị trị thứ hai với tổng giá trị phát hành đạt 4.950 tỷ đồng, trong đó đáng chú ý có các doanh nghiệp bất động sản như: đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng trong nước với tổng giá trị 500 tỷ đồng của công ty cổ phần Glexhomes; đợt phát hành ra công chúng giá trị 1.500 tỷ đồng của Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc. 
Ngoài ra, trong quý đã có 2 đợt phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế gồm: Tập đoàn Vingroup (500 triệu USD) và trái phiếu xanh của Công ty cổ phần bất động sản BIM (200 triệu USD). Trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng thì có 26% trái phiếu phát hành không có tài sản đảm bảo hoặc bảo đảm bằng cổ phần, cổ phiếu. Lãi suất phát hành trái phiếu bất động sản chủ yếu dao động trong khoảng 9,5-11%/năm. Riêng lãi suất trái phiếu mà các ngân hàng phát hành thấp hơn và có sự phân hóa, dao động từ >3%- >7,5%. Như vậy, có thể thấy, vào cuối quý 2/2021 trái phiếu phát hành của các doanh nghiệp phát hành tăng cao, trong đó nhóm ngành bất động sản thể hiện nhu cầu huy động vốn qua kênh trái phiếu lớn. 
(Nguồn: Bộ Xây dựng)