"Nỗi khổ" của thép nội
Ngoài việc giá thép liên tục giảm, tiêu thụ khó thì ngành thép còn phải đối mặt với sự “xâm nhập” của thép nhập ngoại
Trong tháng 3 này, các doanh nghiệp ngành thép đang kỳ vọng vào khả năng phục hồi của thị trường, bởi theo thông lệ đây là thời điểm bắt đầu mùa xây dựng.
Nhưng trái với dự đoán, ngoài việc giá thép liên tục giảm, tiêu thụ khó thì ngành thép còn phải đối mặt với sự “xâm nhập” ngày càng đa dạng của thép nhập ngoại.
Số liệu thống kê của Hải quan cho thấy, trong 15 ngày đầu tháng 2/2009, lượng thép thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam là 220 nghìn tấn (tháng 1/2009 nhập 210 nghìn tấn).
Điều đáng nói là trong thời gian gần đây lượng thép cuộn có nguồn gốc từ Thái Lan và Malaysia đã nhập vào Việt Nam với khối lượng lớn, được áp dụng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 0%, giá bán thấp hơn thép cuộn trong nước khoảng 500 nghìn đồng/tấn gây ra tình trạng ứ đọng thép cuộn sản xuất trong nước.
Gặp khó vì thép ngoại
Theo dự báo của Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), tình hình sản xuất và tiêu thụ thép trong tháng 3/2009 cũng chưa có dấu hiệu khả quan, khó hy vọng đạt mức tiêu thụ bình quân của các năm trước (trên 300 nghìn tấn/tháng).
Giá thép không có biến động lớn và duy trì ở mức thấp hơn tháng 2/2009 do sự cạnh tranh với giá thép nhập khẩu hạ giá từ Trung Quốc và các nước ASEAN.
Đại diện Công ty Cổ phần Thép Việt cho biết, từ giữa tháng 2/2009, các loại thép cuộn dùng trong xây dựng có nguồn gốc từ Indonesia, Thái Lan, Malaysia với mức thuế nhập khẩu 0% được các công ty thương mại chào giá bán sỉ 10,5 triệu đồng/tấn, sau đó giảm còn 9,5 - 9,6 triệu đồng/tấn.
Nếu so sánh với giá bán của các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì thép nhập khẩu từ ASEAN rẻ hơn trung bình 700 - 800 nghìn đồng/tấn. Đây là sức ép rất lớn đối với doanh nghiệp trong nước khi khả năng tiêu thụ vẫn ở mức thấp.
Không chỉ thép cuộncó nguồn gốc từ ASEAN, mà thép nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nga cũng đã xuất hiện trên thị trường với giá bán nhỉnh hơn thép trong khu vực Đông Nam Á khoảng 100 – 150 nghìn đồng/tấn, dù thuế suất nhập khẩu lên đến 12% (do có chất lượng cao hơn).
Mặc dù, tại thị trường phía Nam, nhất là các tỉnh miền Tây thép nội vẫn được người tiêu dùng lựa chọn (chủ yếu là thép cuộn) bởi uy tín và chất lượng cao hơn thép cuộn nhập từ Trung Quốc.
Nhưng, theo ông Đào Đình Đông, phụ trách thị trường của Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSteel) trụ sở phía Nam, mức tiêu thụ của VNSteel ở phía Nam trong tháng 2/2009 đã giảm 20 - 25% so với cùng kỳ 2008 và giảm hơn 30% so với tháng trước vì thép ngoại.
Thép ngoại tràn vào buộc các doanh nghiệp trong nước phải giảm giá hai đợt trong tháng 2 với tổng mức giảm là 800 - 900 nghìn đồng/tấn.
Chủ tịch VSA, ông Phạm Chí Cường cho biết, thép nhập từ các nước ASEAN vào các tỉnh phía Nam đang có chiều hướng tăng lên do các nước xung quanh cũng gặp khó khăn trong tiêu thụ.
Như vậy, thay vì chỉ cạnh tranh với thép Trung Quốc như trước đây thì “đối thủ” của các doanh nghiệp trong nước đã mở rộng hơn.
Cảnh báo về tình trạng nhập khẩu thép cuộn từ các nguồn trong ASEAN, các chuyên gia cho rằng, tuy mới chỉ có thép cuộn được nhập khẩu vào Việt nam, nhưng với tỷ lệ thép cuộn chiếm khoảng 30% tổng lượng thép xây dựng tiêu thụ thì rõ ràng các doanh nghiệp trong nước đang bỏ rơi một phần thị trường không nhỏ cho thép ngoại.
Mặc dù, các doanh nghiệp trong nước vẫn khẳng định được tên tuổi của mình với sản phẩm thép cây, nhưng với thép cuộn nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng thì thật đáng lo ngại.
Gỡ khó bằng cách nào?
Tính đến ngày 3/3/2009, đã có khoảng 100 nghìn tấn thép cuộn nhập vào Việt Nam, trong đó lượng thép nhập khẩu vào phía Nam nhiều hơn phía Bắc do giá bán tại phía Bắc đang rẻ hơn phía Nam khoảng 200.000 đồng/tấn.
Một chuyên gia trong ngành công thương cho biết, phần lớn lượng thép nhập khẩu từ các nước trong khu vực ASEAN đều hợp lệ và đúng nguyên tắc.
Bởi theo phân tích của chuyên gia này, “Để được hưởng mức thuế suất 0%, các doanh nghiệp sản xuất thép của các nước đã làm hai công đoạn luyện và cán thép nên đã đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn 40% hàm lượng nội địa của nguồn gốc xuất xứ”.
Nhưng vấn đề đặt ra là các bộ ngành liên quan sẽ theo dõi lượng nhập khẩu này như thế nào khi thấy lượng nhập khẩu tăng một cách đột biến với số lượng lớn và sẽ có giải pháp gì để hỗ trợ ngành thép trong nước theo đúng nguyên tắc của khu vực thương mại tự do ASEAN và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) như các nước đang áp dụng.
Ông Cường cho biết, hiện nay, VSA đang tập hợp các ý kiến của doanh nghiệp sản xuất thép và phôi thép nhằm kiến nghị lên Bộ Công Thương, Bộ Tài chính về đề xuất tăng thuế nhập khẩu phôi và thép thành phẩm có nguồn gốc ngoài khu vực ASEAN.
Theo đó, VSA sẽ kiến nghị tăng thuế nhập khẩu phôi từ mức 5% lên 17%, thép thành phẩm từ 12% lên 18% (các doanh nghiệp đề nghị tăng lên 20%).
Lý do của đề xuất này, VSA cho rằng các nước như Nga, Ukraine đang xuất khẩu phôi thép vào Việt Nam dưới mức giá thành (đầu tháng 2 dưới 400 USD/tấn, thì đến đầu tháng 3 chỉ còn 300 USD/tấn) khiến các doanh nghiệp sản xuất trong nước không thể cạnh tranh một cách bình đẳng.
Không những phải đối mặt với thép nhập khẩu, mà ngay chính bản thân các doanh nghiệp trong nước vẫn còn một khoảng cách rất xa trong việc xử lý những chi phí tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu trong quá trình sản xuất, có doanh nghiệp chỉ cần khoảng 30 lít dầu DO cho tiêu hao lò nung cán một tấn thép, trong khi có doanh nghiệp phải mất đến 50 lít, thậm chí hơn.
Chính những khoảng cách khá xa như vậy nên khi có sản phẩm với mức giá cạnh tranh hơn của thép nhập khẩu, các doanh nghiệp trong nước càng thấy sức ép đè nặng trên vai cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng trái với dự đoán, ngoài việc giá thép liên tục giảm, tiêu thụ khó thì ngành thép còn phải đối mặt với sự “xâm nhập” ngày càng đa dạng của thép nhập ngoại.
Số liệu thống kê của Hải quan cho thấy, trong 15 ngày đầu tháng 2/2009, lượng thép thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam là 220 nghìn tấn (tháng 1/2009 nhập 210 nghìn tấn).
Điều đáng nói là trong thời gian gần đây lượng thép cuộn có nguồn gốc từ Thái Lan và Malaysia đã nhập vào Việt Nam với khối lượng lớn, được áp dụng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 0%, giá bán thấp hơn thép cuộn trong nước khoảng 500 nghìn đồng/tấn gây ra tình trạng ứ đọng thép cuộn sản xuất trong nước.
Gặp khó vì thép ngoại
Theo dự báo của Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), tình hình sản xuất và tiêu thụ thép trong tháng 3/2009 cũng chưa có dấu hiệu khả quan, khó hy vọng đạt mức tiêu thụ bình quân của các năm trước (trên 300 nghìn tấn/tháng).
Giá thép không có biến động lớn và duy trì ở mức thấp hơn tháng 2/2009 do sự cạnh tranh với giá thép nhập khẩu hạ giá từ Trung Quốc và các nước ASEAN.
Đại diện Công ty Cổ phần Thép Việt cho biết, từ giữa tháng 2/2009, các loại thép cuộn dùng trong xây dựng có nguồn gốc từ Indonesia, Thái Lan, Malaysia với mức thuế nhập khẩu 0% được các công ty thương mại chào giá bán sỉ 10,5 triệu đồng/tấn, sau đó giảm còn 9,5 - 9,6 triệu đồng/tấn.
Nếu so sánh với giá bán của các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì thép nhập khẩu từ ASEAN rẻ hơn trung bình 700 - 800 nghìn đồng/tấn. Đây là sức ép rất lớn đối với doanh nghiệp trong nước khi khả năng tiêu thụ vẫn ở mức thấp.
Không chỉ thép cuộncó nguồn gốc từ ASEAN, mà thép nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nga cũng đã xuất hiện trên thị trường với giá bán nhỉnh hơn thép trong khu vực Đông Nam Á khoảng 100 – 150 nghìn đồng/tấn, dù thuế suất nhập khẩu lên đến 12% (do có chất lượng cao hơn).
Mặc dù, tại thị trường phía Nam, nhất là các tỉnh miền Tây thép nội vẫn được người tiêu dùng lựa chọn (chủ yếu là thép cuộn) bởi uy tín và chất lượng cao hơn thép cuộn nhập từ Trung Quốc.
Nhưng, theo ông Đào Đình Đông, phụ trách thị trường của Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSteel) trụ sở phía Nam, mức tiêu thụ của VNSteel ở phía Nam trong tháng 2/2009 đã giảm 20 - 25% so với cùng kỳ 2008 và giảm hơn 30% so với tháng trước vì thép ngoại.
Thép ngoại tràn vào buộc các doanh nghiệp trong nước phải giảm giá hai đợt trong tháng 2 với tổng mức giảm là 800 - 900 nghìn đồng/tấn.
Chủ tịch VSA, ông Phạm Chí Cường cho biết, thép nhập từ các nước ASEAN vào các tỉnh phía Nam đang có chiều hướng tăng lên do các nước xung quanh cũng gặp khó khăn trong tiêu thụ.
Như vậy, thay vì chỉ cạnh tranh với thép Trung Quốc như trước đây thì “đối thủ” của các doanh nghiệp trong nước đã mở rộng hơn.
Cảnh báo về tình trạng nhập khẩu thép cuộn từ các nguồn trong ASEAN, các chuyên gia cho rằng, tuy mới chỉ có thép cuộn được nhập khẩu vào Việt nam, nhưng với tỷ lệ thép cuộn chiếm khoảng 30% tổng lượng thép xây dựng tiêu thụ thì rõ ràng các doanh nghiệp trong nước đang bỏ rơi một phần thị trường không nhỏ cho thép ngoại.
Mặc dù, các doanh nghiệp trong nước vẫn khẳng định được tên tuổi của mình với sản phẩm thép cây, nhưng với thép cuộn nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng thì thật đáng lo ngại.
Gỡ khó bằng cách nào?
Tính đến ngày 3/3/2009, đã có khoảng 100 nghìn tấn thép cuộn nhập vào Việt Nam, trong đó lượng thép nhập khẩu vào phía Nam nhiều hơn phía Bắc do giá bán tại phía Bắc đang rẻ hơn phía Nam khoảng 200.000 đồng/tấn.
Một chuyên gia trong ngành công thương cho biết, phần lớn lượng thép nhập khẩu từ các nước trong khu vực ASEAN đều hợp lệ và đúng nguyên tắc.
Bởi theo phân tích của chuyên gia này, “Để được hưởng mức thuế suất 0%, các doanh nghiệp sản xuất thép của các nước đã làm hai công đoạn luyện và cán thép nên đã đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn 40% hàm lượng nội địa của nguồn gốc xuất xứ”.
Nhưng vấn đề đặt ra là các bộ ngành liên quan sẽ theo dõi lượng nhập khẩu này như thế nào khi thấy lượng nhập khẩu tăng một cách đột biến với số lượng lớn và sẽ có giải pháp gì để hỗ trợ ngành thép trong nước theo đúng nguyên tắc của khu vực thương mại tự do ASEAN và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) như các nước đang áp dụng.
Ông Cường cho biết, hiện nay, VSA đang tập hợp các ý kiến của doanh nghiệp sản xuất thép và phôi thép nhằm kiến nghị lên Bộ Công Thương, Bộ Tài chính về đề xuất tăng thuế nhập khẩu phôi và thép thành phẩm có nguồn gốc ngoài khu vực ASEAN.
Theo đó, VSA sẽ kiến nghị tăng thuế nhập khẩu phôi từ mức 5% lên 17%, thép thành phẩm từ 12% lên 18% (các doanh nghiệp đề nghị tăng lên 20%).
Lý do của đề xuất này, VSA cho rằng các nước như Nga, Ukraine đang xuất khẩu phôi thép vào Việt Nam dưới mức giá thành (đầu tháng 2 dưới 400 USD/tấn, thì đến đầu tháng 3 chỉ còn 300 USD/tấn) khiến các doanh nghiệp sản xuất trong nước không thể cạnh tranh một cách bình đẳng.
Không những phải đối mặt với thép nhập khẩu, mà ngay chính bản thân các doanh nghiệp trong nước vẫn còn một khoảng cách rất xa trong việc xử lý những chi phí tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu trong quá trình sản xuất, có doanh nghiệp chỉ cần khoảng 30 lít dầu DO cho tiêu hao lò nung cán một tấn thép, trong khi có doanh nghiệp phải mất đến 50 lít, thậm chí hơn.
Chính những khoảng cách khá xa như vậy nên khi có sản phẩm với mức giá cạnh tranh hơn của thép nhập khẩu, các doanh nghiệp trong nước càng thấy sức ép đè nặng trên vai cũng là điều dễ hiểu.