Dù trong điều kiện chịu nhiều sức ép và thách thức, Chính phủ
vẫn luôn coi ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ hàng đầu. Có duy trì được sự ổn
định này thì mới có được niềm tin của người dân, doanh nghiệp và phát triển nền
kinh tế bền vững, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nêu quan điểm.
Hiện nhiều đại biểu Quốc hội lo ngại Chính phủ vì cố đạt được
mục tiêu GDP tăng 6,7% mà không kiên trì ổn định vĩ mô. Ông có thể chia sẻ điều
gì cùng đại biểu Quốc hội?
Chính phủ đã xác định rõ, với nhiệm vụ thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế cả năm 2017 đạt 6,7%, đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu trung
và dài hạn là cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Các giải pháp đề
ra trên tinh thần có sự kết hợp hài hòa giữa giải pháp ngắn hạn và giải pháp
căn cơ dài hạn. Theo đó, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được coi là điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế
Nhưng có vẻ việc kiên trì ổn định vĩ mô đang gặp rất nhiều sức
ép, thưa ông?
Đúng như vậy. Việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô các tháng
cuối năm đang chịu nhiều sức ép và thách thức trong điều hành các chính sách
tài chính, tiền tệ.
Trong bối cảnh tình hình thế giới chưa xuất hiện xu thế rõ
ràng và đang thuận lợi trong ngắn hạn, Chính phủ sẽ điều hành để nền kinh tế tập
trung phát huy tối đa những tiềm năng đã có trong các tháng đầu năm, như tăng
nhanh tốc độ giải ngân vốn đầu tư; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong nước gắn
với xuất khẩu, tận dụng cơ hội thương mại và giá cả thế giới đang phục hồi; chú
trọng phát triển tiêu dùng trong nước, tạo thế ổn định và dự phòng ứng phó khi
tình hình thế giới có thay đổi...
Tuy nhiên, dù trong điều kiện thế nào thì ổn định kinh tế vĩ
mô vẫn được Chính phủ coi là nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội.
Có duy trì được sự ổn định này thì mới có được niềm tin của người dân, doanh
nghiệp và phát triển nền kinh tế bền vững.
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cảnh báo lạm phát năm 2017 có thể
diễn biến phức tạp và sẽ cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra. Chính phủ nhìn nhận
thế nào về nguy cơ này, thưa ông?
Lạm phát tăng chủ yếu do giá thuốc, giá dịch vụ y tế (tăng
17,6% so với cuối 2016), giá dịch vụ giáo dục (tăng 1,23%); giá nhà ở và vật liệu
xây dựng (tăng 1,61%)...
Giá một số mặt hàng nhà nước quản lý như phí dịch vụ y
tế, giáo dục, giá điện vẫn tiếp tục lộ trình tăng nhằm tiếp cận giá thị trường;
lương cơ bản điều chỉnh tăng,... sẽ làm tăng chỉ số giá trong năm 2017.
Về tiền tệ, tín dụng, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay ổn
định, hầu như không đổi trong quý 1. Việc điều chỉnh lãi suất của Fed trong
tháng 3/2017 chưa ảnh hưởng đáng kể đến lãi suất huy động và cho vay USD trong
nước.
Tuy nhiên, trong dài hạn, nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất đến mức 2,9% vào
năm 2019, đồng tiền các nước sẽ liên tục giảm giá so với đồng Việt Nam thì cán
cân thương mại của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng, gián tiếp tác động đến tỷ giá và
sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình đầu tư, làm tăng nợ công của Chính phủ,
kiều hối sẽ tiếp tục giảm,... ảnh hưởng đến sản xuất và giá cả trong nước.
Thị trường hàng hóa thời gian tới sẽ chịu tác động của các yếu
tố như dịch bệnh trên vật nuôi đang có nguy cơ bùng phát; thời tiết, khí hậu vẫn
nhiều khả năng ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và nguồn cung nông sản; giá cả
nhóm hàng nhiên liệu năng lượng trên thế giới có xu hướng tăng ảnh hưởng tới
giá xăng bán lẻ trong nước.
Chúng tôi đã phân tích kỹ và thấy rằng, lạm phát dự báo chịu
nhiều sức ép tăng trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng thấp, đặt ra yêu cầu cao đối
với hiệu quả trong điều phối chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách giá cả trong
những tháng còn lại của năm 2017 và Chính phủ quyết tâm giữ mức lạm phát như
theo yêu cầu của Quốc hội.
Một năm đã qua, Chính phủ đã dốc sức vì doanh nghiệp, nơi giữ
vai trò động lực chính cho tăng trưởng. Ông có thể chia sẻ về những nỗ lực này
của Chính phủ?
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo công tác
xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP, đến nay Chính phủ đã sửa đổi 50 nghị định
liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh; cắt giảm, đơn giản hóa trên 4.500 thủ
tục hành chính; kết nối cơ chế một cửa ASEAN với 4 nước; đã xử lý 850/1.100 kiến
nghị của doanh nghiệp (đạt trên 77%)...
Kết quả là xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam
tăng 9 bậc (từ 91/189 lên 82/190 quốc gia, vùng lãnh thổ). Chỉ số Nhà quản trị
mua hàng (PMI) trong tháng 3, tháng 4 đạt mức cao trong 22 tháng và cao nhất
trong khu vực ASEAN.
Theo báo cáo Tổng quan môi trường kinh doanh ASEAN 2017 của
Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AmCham), 36% doanh nghiệp được khảo sát dự định mở rộng kinh
doanh tại Việt Nam (cao hơn mức 28% của Indonesia, 21% của Thái Lan, 19% của
Malaysia, 19% của Philippines).
Còn theo khảo sát mới đây của Tổ chức Xúc tiến
thương mại Nhật Bản (JETRO), có 66% doanh nghiệp được khảo sát muốn mở rộng hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam. Có thể thấy, kết quả phát triển doanh nghiệp đã bắt đầu khởi sắc.