Phát triển ngành dầu thực vật: Khó nhất vùng nguyên liệu
Điểm yếu nhất của ngành dầu thực vật là trên 90% nguyên liệu phải nhập khẩu
Đại diện cho cơ quan chủ trì soạn thảo quy hoạch phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Thứ trưởng Bộ Công Thương Bùi Xuân Khu cho rằng, khó khăn của ngành không phải là đầu tư thêm nhà máy sản xuất mà bài toán khó nhất chính là phải cân nhắc, tính toán đến vùng nguyên liệu.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, ngành dầu thực vật Việt Nam thời gian qua đã không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc dân.
Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành năm 2008 đạt 6.620 tỷ đồng, chiếm 4,62% Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành thực phẩm, đồ uống và 1,02% Giá trị sản xuất công nghiệpcủa toàn ngành công nghiệp, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng/năm (năm 2008 là 1.647 tỷ đồng).
Lao động trong ngành có thu nhập cao hơn so với mức trung bình của xã hội (bình quân năm 2007 là 5,31 triệu đồng/người/tháng). Sản phẩm của ngành không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tham gia xuất khẩu.
Khảo sát thực trạng cho thấy, năm 2008, toàn ngành có 35 doanh nghiệp sản xuất ở 13 tỉnh, thành phố với tổng năng lực sản xuất 1.129 ngàn tấn dầu tinh luyện/năm (mức huy động công suất sản xuất đạt 51,3%) và 296,9 ngàn tấn nguyên liệu có dầu/năm (mức huy động công suất sản xuất mới đạt 35,3%), tương đương khoảng 85 ngàn tấn dầu thô/năm.
Trong đó, doanh nghiệp lớn nhất của ngành là Công ty Dầu thực vật hương liệu mỹ phẩm Việt Nam (Vocarimex) và các công ty con, công ty liên doanh, liên kết chiếm 78,74% năng lực sản xuất dầu tinh luyện và 23,24% năng lực sản xuất dầu thô của toàn ngành.
Đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngành, ông Phạm Văn Liêm, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) khẳng định, nhìn chung khả năng cạnh tranh của sản phẩm dầu thực vật chưa cao, do sản phẩm dầu ăn phải chịu sự cạnh tranh mạnh với các sản phẩm dầu ăn từ các nước ASEAN.
Trong khi đó, để phục vụ sản xuất trong nước thì nguồn nguyên liệu vừa thiếu vừa phân tán với nhiều chủng loại khác nhau, chưa tìm được cây có dầu chủ lực và nhiều nguyên liệu lại có thể sử dụng đa mục đích. Điểm yếu nhất của ngành là trên 90% nguyên liệu phải nhập khẩu.
Trong giai đoạn 2000 - 2008, nhập khẩu dầu của Việt Nam tăng trung bình 12,6%/năm, trong khi xuất khẩu ngày càng giảm dẫn tới ngành dầu đang nhập siêu khá lớn. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu đã trên 700 triệu USD. Dự báo, nếu không có chương trình phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu hữu hiệu, đến năm 2015 phải nhập khẩu trên 1 tỷ USD nguyên liệu dầu thô và hạt có dầu.
Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là dầu cọ (chiếm 77,88% trong cơ cấu nhập khẩu) từ Malaysia và Indonesia, nhưng do chênh lệch về thuế giữa dầu thô và dầu tinh luyện không cao (theo cam kết của AFTA) nên đa phần doanh nghiệp thường nhập dầu tinh luyện về sản xuất thành phẩm và cung ứng ra thị trường. Hệ lụy kéo theo là không khuyến khích được các nhà đầu tư phát triển các nhà máy trích ly dầu thô.
Theo tính toán, mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người của Việt Nam năm 2008 mới là 7 kg/người, tương đương với mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người của Trung Quốc năm 1995.
Nếu coi mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người năm 1995 của Trung Quốc và năm 2008 của Việt Nam là cơ sở, thì mức tăng trưởng tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người tương đồng của Việt Nam sẽ vào khoảng 8%/năm trong giai đoạn 2008 - 2018 và 3,5%/năm trong giai đoạn 2018 - 2025, tương đương với mức tiêu thụ bình quân đầu người là 15,2 kg/người vào năm 2018 và 19,4 kg/người vào năm 2025. Như vậy, tiềm năng phát triển của ngành tại thị trường nội địa còn rất lớn.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bùi Xuân Khu nhận định, sau khi thực hiện quy hoạch phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam 2001-2010, đến nay chúng ta vẫn chưa tìm được cây có dầu chủ lực để phát triển với quy mô lớn, có hiệu quả kinh tế cao, có thể cạnh tranh được với các cây trồng khác nên chương trình trồng cây có dầu không đem lại kết quả mong muốn.
Một nguồn nguyên liệu giàu tiềm năng là cám gạo ở đồng bằng sông Cửu Long có tổng khối lượng rất lớn (400-500 ngàn tấn/năm) nhưng khó thu mua với số lượng lớn và chi phí vận chuyển về nhà máy cao nên dự án nhà máy dầu cám ở Cần Thơ vẫn không đạt được hiệu quả cao (năm 2008 mới chỉ thu mua được 80 ngàn tấn).
Dự thảo quy hoạch chỉ rõ, mục tiêu của ngành là từng bước xây dựng và phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến sản phẩm cuối cùng, đồng thời tăng dần tỷ trọng nguyên liệu trong nước để sản xuất dầu thô và cung cấp khô dầu cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.
Theo đó, đến năm 2020, Việt Nam sẽ sản xuất và tiêu thụ 1.420 - 1.730 ngàn tấn tinh luyện, 280 - 430 ngàn tấn dầu thô và xuất khẩu đạt 60 ngàn tấn dầu các loại. Đến năm 2025, Việt Nam sẽ sản xuất và tiêu thụ 1.680 - 2.130 ngàn tấn tinh luyện, 320 - 520 ngàn tấn dầu thô và xuất khẩu đạt 80 ngàn tấn dầu các loại.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập, bên cạnh việc các doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã và phát triển hệ thống phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng với chi phí thấp thì các cơ quan chức năng cần có chính sách mạnh để khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu và sản xuất dầu thô trong nước, từng bước nâng cao tỷ lệ tự túc nguyên liệu ngành dầu.
Trước mắt, Chính phủ nên cho thành lập chương trình xúc tiến phát triển cây có dầu chủ lực, cho nông dân vay vốn ưu đãi để phát triển cây có dầu với quy mô lớn, ưu tiên trước hết là cây đậu nành, lạc và vừng.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, ngành dầu thực vật Việt Nam thời gian qua đã không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc dân.
Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành năm 2008 đạt 6.620 tỷ đồng, chiếm 4,62% Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành thực phẩm, đồ uống và 1,02% Giá trị sản xuất công nghiệpcủa toàn ngành công nghiệp, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng/năm (năm 2008 là 1.647 tỷ đồng).
Lao động trong ngành có thu nhập cao hơn so với mức trung bình của xã hội (bình quân năm 2007 là 5,31 triệu đồng/người/tháng). Sản phẩm của ngành không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tham gia xuất khẩu.
Khảo sát thực trạng cho thấy, năm 2008, toàn ngành có 35 doanh nghiệp sản xuất ở 13 tỉnh, thành phố với tổng năng lực sản xuất 1.129 ngàn tấn dầu tinh luyện/năm (mức huy động công suất sản xuất đạt 51,3%) và 296,9 ngàn tấn nguyên liệu có dầu/năm (mức huy động công suất sản xuất mới đạt 35,3%), tương đương khoảng 85 ngàn tấn dầu thô/năm.
Trong đó, doanh nghiệp lớn nhất của ngành là Công ty Dầu thực vật hương liệu mỹ phẩm Việt Nam (Vocarimex) và các công ty con, công ty liên doanh, liên kết chiếm 78,74% năng lực sản xuất dầu tinh luyện và 23,24% năng lực sản xuất dầu thô của toàn ngành.
Đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngành, ông Phạm Văn Liêm, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) khẳng định, nhìn chung khả năng cạnh tranh của sản phẩm dầu thực vật chưa cao, do sản phẩm dầu ăn phải chịu sự cạnh tranh mạnh với các sản phẩm dầu ăn từ các nước ASEAN.
Trong khi đó, để phục vụ sản xuất trong nước thì nguồn nguyên liệu vừa thiếu vừa phân tán với nhiều chủng loại khác nhau, chưa tìm được cây có dầu chủ lực và nhiều nguyên liệu lại có thể sử dụng đa mục đích. Điểm yếu nhất của ngành là trên 90% nguyên liệu phải nhập khẩu.
Trong giai đoạn 2000 - 2008, nhập khẩu dầu của Việt Nam tăng trung bình 12,6%/năm, trong khi xuất khẩu ngày càng giảm dẫn tới ngành dầu đang nhập siêu khá lớn. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu đã trên 700 triệu USD. Dự báo, nếu không có chương trình phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu hữu hiệu, đến năm 2015 phải nhập khẩu trên 1 tỷ USD nguyên liệu dầu thô và hạt có dầu.
Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là dầu cọ (chiếm 77,88% trong cơ cấu nhập khẩu) từ Malaysia và Indonesia, nhưng do chênh lệch về thuế giữa dầu thô và dầu tinh luyện không cao (theo cam kết của AFTA) nên đa phần doanh nghiệp thường nhập dầu tinh luyện về sản xuất thành phẩm và cung ứng ra thị trường. Hệ lụy kéo theo là không khuyến khích được các nhà đầu tư phát triển các nhà máy trích ly dầu thô.
Theo tính toán, mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người của Việt Nam năm 2008 mới là 7 kg/người, tương đương với mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người của Trung Quốc năm 1995.
Nếu coi mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người năm 1995 của Trung Quốc và năm 2008 của Việt Nam là cơ sở, thì mức tăng trưởng tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người tương đồng của Việt Nam sẽ vào khoảng 8%/năm trong giai đoạn 2008 - 2018 và 3,5%/năm trong giai đoạn 2018 - 2025, tương đương với mức tiêu thụ bình quân đầu người là 15,2 kg/người vào năm 2018 và 19,4 kg/người vào năm 2025. Như vậy, tiềm năng phát triển của ngành tại thị trường nội địa còn rất lớn.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bùi Xuân Khu nhận định, sau khi thực hiện quy hoạch phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam 2001-2010, đến nay chúng ta vẫn chưa tìm được cây có dầu chủ lực để phát triển với quy mô lớn, có hiệu quả kinh tế cao, có thể cạnh tranh được với các cây trồng khác nên chương trình trồng cây có dầu không đem lại kết quả mong muốn.
Một nguồn nguyên liệu giàu tiềm năng là cám gạo ở đồng bằng sông Cửu Long có tổng khối lượng rất lớn (400-500 ngàn tấn/năm) nhưng khó thu mua với số lượng lớn và chi phí vận chuyển về nhà máy cao nên dự án nhà máy dầu cám ở Cần Thơ vẫn không đạt được hiệu quả cao (năm 2008 mới chỉ thu mua được 80 ngàn tấn).
Dự thảo quy hoạch chỉ rõ, mục tiêu của ngành là từng bước xây dựng và phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến sản phẩm cuối cùng, đồng thời tăng dần tỷ trọng nguyên liệu trong nước để sản xuất dầu thô và cung cấp khô dầu cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi.
Theo đó, đến năm 2020, Việt Nam sẽ sản xuất và tiêu thụ 1.420 - 1.730 ngàn tấn tinh luyện, 280 - 430 ngàn tấn dầu thô và xuất khẩu đạt 60 ngàn tấn dầu các loại. Đến năm 2025, Việt Nam sẽ sản xuất và tiêu thụ 1.680 - 2.130 ngàn tấn tinh luyện, 320 - 520 ngàn tấn dầu thô và xuất khẩu đạt 80 ngàn tấn dầu các loại.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập, bên cạnh việc các doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã và phát triển hệ thống phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng với chi phí thấp thì các cơ quan chức năng cần có chính sách mạnh để khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu cây có dầu và sản xuất dầu thô trong nước, từng bước nâng cao tỷ lệ tự túc nguyên liệu ngành dầu.
Trước mắt, Chính phủ nên cho thành lập chương trình xúc tiến phát triển cây có dầu chủ lực, cho nông dân vay vốn ưu đãi để phát triển cây có dầu với quy mô lớn, ưu tiên trước hết là cây đậu nành, lạc và vừng.