07:12 08/09/2022

Tập trung nguồn lực xây dựng các trung tâm logistics phục vụ nông nghiệp

Chương Phượng

Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu hàng chục triệu tấn nông sản ra thế giới, đem về gần 5 tỷ USD. Tuy nhiên, logistics phục vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản của Việt Nam do mới phát triển nên còn nhiều hạn chế, nông sản nguyên liệu phải vận chuyển lòng vòng qua nhiều công đoạn khiến chi phí logistics chiếm tới 25% trong giá thành sản xuất nông sản…

Cả nước hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.
Cả nước hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được Chính phủ được giao xây dựng và hoàn thiện đề án hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp, nhất là quy hoạch và triển khai xây dựng hệ thống kho bãi, trung tâm logistics phục vụ nông nghiệp và kết nối giữa các vùng ngành đến trung tâm logistics và cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu.

Chiều 7/9/2022, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghe Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản báo cáo về đề án phát triển hệ thống logistics nông nghiệp.

HÌNH THÀNH CÁC ĐIỂM LOGISTICS CỘNG ĐỒNG Ở NÔNG THÔN?

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, cho biết hiện nay cả nước có hơn 7.500 cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không gắn với vùng nguyên liệu.

Về hạ tầng logistics, Việt Nam đã có hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, cửa khẩu quốc gia, 9.000 chợ dân sinh, 1.200 siêu thị; 250 trung tâm thương mại, hơn 1.800 cửa hàng tiện lợi và gần 1.700 chuỗi nông sản an toàn.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan chủ trì họp về logistics nông sản.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan chủ trì họp về logistics nông sản.

Cả nước hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, trong đó 88% là các doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Dẫn dữ liệu nghiên cứu của Gemadept Logistics, ông Toản cho biết mỗi năm các nhà máy chế biến tại Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển khoảng 2 - 3 triệu tấn thủy sản, 6 - 7 triệu tấn gạo, 2,5 - 3 triệu tấn trái cây đến hệ thống kho lạnh, cảng ở TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu.

 

“Vì chi phí hạ tầng chưa đồng bộ nên chi phí logistics cho xuất khẩu nông sản trung bình chiếm tỷ lệ khoảng 20 - 25%, quá cao so với các nước trong khu vực. Trong khi ở Thái Lan, chi phí logistics nông sản xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 10 - 15%”.

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản.

Ngược lại, các nhà máy vật tư nông nghiệp như nông cụ, nông dược, phân bón, thức ăn gia súc tại Đông Nam Bộ có nhu cầu vận chuyển 6 - 7 triệu tấn thức ăn gia súc, 2 triệu tấn phân bón đến thị trường miền Tây Nam bộ.

Thế nhưng, 70% lượng hàng hóa xuất khẩu mỗi năm phải chuyển về TP.HCM hoặc cảng Cái Mép bằng đường bộ khiến giá thành sản phẩm bị đội lên; lưu thông khó khăn và mất thời gian.

Chỉ ra nhiều hạn chế về hạ tầng logistics, ông Toản cho rằng năng lực lưu kho chưa đáp ứng được yêu cầu; chuỗi cung ứng dịch vụ logistics hầu hết do các doanh nghiệp nhỏ thực hiện đơn lẻ từng khâu; dịch vụ logistics mới chỉ phát triển ở các thành phố lớn trong khi các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm như Đồng bằng sông cửu Long chưa có nhiều.

Xây dựng Đề án phát triển hạ tầng logistics cho nông sản, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đề xuất cần tập trung hỗ trợ hạ tầng cứng và hạ tầng mềm logistics tại các hành lang biên giới để tập kết, giao dịch trực tiếp sang thị trường nhập khẩu.

Cùng với đó là đầu tư hình thành các điểm logistics cộng đồng ở nông thôn gắn với vùng nguyên liệu tập trung để cung cấp dịch vụ kho bãi, kho bảo quản lạnh và đóng gói bao bì.

Tại các điểm Logistics đều phải có sàn giao dịch điện tử, kho lạnh bảo quản nông sản tươi, kho hàng khô, bãi tập kết, bốc dỡ xe container, điểm kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa đầu ra, đầu vào, ki-ốt bán lẻ và không gian quảng bá sản phẩm cộng đồng.

THU HÚT DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ VÀ VẬN HÀNH LOGISTICS

TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, cho rằng hệ thống logistics cần thiết kế bao gồm cả những trung tâm nhỏ, trung tâm kết nối và các dịch vụ để có thể đưa hàng hóa, sản phẩm nông sản vào các thị trường lớn.

“Hiện nay, chúng ta đã có những dự án xây dựng trung tâm logistics cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ. Ngân hàng Thế giới cũng sẵn sàng tài trợ để thành lập trung tâm logistics ở Đồng Tháp nếu địa phương bố trí được mặt bằng. Một số trung tâm logistics ở khu vực biên mậu, cảng biển cũng đã được quy hoạch và có mặt bằng, do đó cần rà soát, đánh giá và hỗ trợ để thúc đẩy hình thành các trung tâm logistics này một cách đồng bộ, hiện đại”, TS. Thắng khuyến nghị.

 

“Giai đoạn này cần tập trung nguồn lực hỗ trợ hình thành các trung tâm logistics tại các vùng nguyên liệu tập trung thông qua việc lồng ghép thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu”,

Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng nếu dựa vào ngân sách nhà nước để đầu tư kho lạnh, nhà kho… thì không hiệu quả. Điều quan trọng nhất là phải thu hút được các doanh nghiệp, hợp tác xã bỏ vốn đầu tư và vận hành.

“Nếu chúng ta chỉ tập trung vào xây dựng các chương trình, đề án mà không xác định nguồn lực và có chính sách để hỗ trợ phát triển thì rất khó hình thành được hệ thống cung cấp dịch vụ logistics phục vụ nông nghiệp hiệu quả. Chỉ khi chúng ta xây dựng được khung chính sách thì mới phát triển hạ tầng logistics mang tính chất bền vững, nhất là chính sách về đất đai, tín dụng và hỗ trợ phát triển thị trường”, ông Việt nhấn mạnh.

Sau khi nghe các ý kiến, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan đồng tình, cho rằng trong quá trình xây dựng các mô hình cung ứng dịch vụ logistics tại các vùng nguyên liệu, cần phải gắn với sự tham gia của doanh nghiệp thu mua, chế biến và các hợp tác xã. Trong đó, doanh nghiệp sẽ hướng dẫn các hợp tác xã quản trị, kỹ năng vận hành hệ thống một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả.

“Để hình thành được một hệ thống logistics đồng bộ phục vụ kinh tế nông nghiệp, chúng ta cần phải xây dựng quy hoạch, có đề án, chiến lược, kế hoạch... Tuy nhiên, mỗi quy hoạch, chiến lược cần phải có nhiều năm khảo sát, đánh giá, xây dựng mới ra được”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan lưu ý.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan yêu cầu các đơn vị thuộc Bộ khi xây dựng Đề án logistics cho nông sản, cần khu biệt lại phạm vi và các nhiệm vụ cần tập trung triển khai theo từng năm dựa trên điều kiện và năng lực thực tế. Đặc biệt, ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần phải thu hút các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cùng tham gia. Vì nhà nước không thể khai thác và vận hành hệ thống hạ tầng logistics hiệu quả bằng doanh nghiệp.

Theo Bộ trưởng, trong giai đoạn này cần tập trung nguồn lực hỗ trợ hình thành các trung tâm logistics tại các vùng nguyên liệu tập trung thông qua việc lồng ghép thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.