Thận trọng với nhiễm trùng máu gây nhiều biến chứng
Nhiễm trùng máu không phải bệnh nhưng đây là tình trạng nguy kịch có thể gây tử vong cho bệnh nhân, hoặc để lại nhiều biến chứng nguy hiểm. Bất kỳ ai cũng có thể mắc phải nhiễm trùng máu.
Nhiễm trùng máu xảy ra khi vi trùng xâm nhập vào cơ thể, tiết ra chất độc dẫn đến suy đa cơ quan, rối loạn đông máu hoặc suy gan, suy thận... Khi xác định nhiễm trùng máu, bác sĩ sẽ xác định "ngõ vào" của vi khuẩn, ví dụ nhiễm trùng máu hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu… do trước đó người bệnh đã bị nhiễm trùng các hệ này trước.
Các dấu hiệu ban đầu đôi khi có thể là chỉ là từ vết xước trên da, qua máu, máu đi khắp cơ thể, hàng rào bảo vệ bị phá vỡ thì nhiễm trùng máu xâm nhập dễ dàng gây ra nhiễm khuẩn nghiêm trọng. Nếu bị nhiễm trùng xương hay còn gọi là chứng viêm tủy xương cũng có thể dẫn đến nhiễm trùng máu. Hoặc vi khuẩn gây ra nhiễm trùng máu có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua đường truyền tĩnh mạch, các vết mổ, ống thông tiểu niệu đạo và các vết loét do nằm liệt giường. Triệu chứng nhiễm trùng máu Do nhiễm trùng máu có thể bắt đầu ở bất kỳ các bộ phận nào trên cơ thể nên bệnh cũng có nhiều triệu chứng khác nhau. Nhiễm trùng máu sẽ có đầy đủ các biểu hiện của hội chứng nhiễm trùng, nhiễm độc như: dấu hiệu đầu tiên là sốt cao, nhiệt độ cơ thể không ổn định; thở gấp hoặc rối loạn nhịp thở; ớn lạnh; đi tiểu ít hơn bình thường; mạch nhanh; thở nhanh; buồn nôn, ói mửa; bị tiêu chảy. Nhiễm trùng máu có thể điều trị hết nếu gặp các biểu hiện trên, người nhà nhanh chóng đưa bệnh nhân đến bệnh viện để được điều trị tích cực. Để xác định có phải nhiễm trùng máu hay không bác sĩ sẽ cho làm những kiểm tra chuyên sâu, cấy máu, xác định vi khuẩn trong máu, nguồn lây nhiễm từ đâu, số lượng tiểu cầu, thay đổi chức năng gan thận… Nếu bác sĩ chẩn đoán bạn bị nhiễm trùng máu, bạn sẽ được khuyến cáo vào khoa chăm sóc đặc biệt. Taị đây, các bác sĩ sẽ cố gắng để ngăn chặn sự nhiễm trùng, kiểm soát chức năng hoạt động của các cơ quan và điều chỉnh huyết áp cân bằng. Khi bác sĩ xác định được nguyên nhân gây ra nhiễm trùng máu, bệnh nhân sẽ được kê đơn thuốc cho với mục tiêu diệt loại vi khuẩn cụ thể gây bệnh. Thông thường, bác sĩ kê đơn thuốc giảm huyết áp để cải thiện huyết áp. Nguyên nhân gây nhiễm trùng máu Nhiễm trùng cấp tính có nguyên nhân từ vi khuẩn lưu hành ở trong máu; chúng gây ra các triệu chứng lâm sàng đa dạng, làm suy đa phủ tạng, sốc nhiễm khuẩn với tỉ lệ tử vong rất cao có thể từ 20 - 50% các trường hợp; trong đó sốc nhiễm khuẩn là một tình trạng biểu hiện trầm trọng của nhiễm trùng máu. Trên thực tế, có một số yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến bệnh lý nhiễm trùng máu bao gồm: người cao tuổi, trẻ sơ sinh, trẻ sinh non; người có sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, thuốc corticoid kéo dài, thuốc chống thải ghép, đang điều trị hóa chất và tia xạ; người có bệnh mãn tính như: đái tháo đường, nhiễm HIV/AIDS, xơ gan, bệnh van tim và tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính, suy thận mạn tính; người bệnh đã cắt lách, nghiện rượu, có bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt; bệnh nhân có sử dụng các thiết bị hoặc dụng cụ xâm nhập cơ thể nhưng đóng đinh nội tủy, đặt ống dẫn truyền, đặt ống nội khí quản...
Nguyên nhân gây nhiễm trùng máu do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào máu hoặc từ các ổ nhiễm khuẩn ở các mô tế bào, những cơ quan như: da, mô mềm, cơ, xương, khớp, hô hấp, tiêu hóa... Các loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng máu gồm vi khuẩn gram âm, vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kỵ khí. Vi khuẩn gram âm chủ yếu là vi khuẩn đường ruột họ Enterobacteriacae như: Salmonella, Escherichia coli, Klebsiella, Serratia và các vi khuẩn Enterobacter...; ngoài ra còn có Pseudomonas aeruginosa, Burkholderia pseudomallei. Vi khuẩn gram dương thường gặp là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus suis... Vi khuẩn kỵ khí thường gặp là Clostridium perfringens và Bacteroides fragilis.
Chẩn đoán nhiễm trùng máu Trong thực tế, bệnh lý nhiễm trùng máu được chẩn đoán xác định căn cứ vào các triệu chứng biểu hiện trên lâm sàng và kết quả thực hiện những xét nghiệm có liên quan. Về mặt lâm sàng: người bệnh phải có những quy định sau đây: Bệnh nhân người lớn có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng sau đây mà không tìm ra được nguyên nhân nào khác như: sốt cao trên 38oC, hạ huyết áp với huyết áp tâm thu từ 90mmHg trở xuống hay nước tiểu ít dưới 20cm3 mỗi giờ;…Bệnh nhân trẻ em từ 1 tuổi trở xuống có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng sau đây mà không tìm ra được nguyên nhân nào khác như: sốt cao trên 38oC, thân nhiệt hạ dưới 37oC, ngừng thở, tim đập chậm mà không tìm ra nguyên nhân nào khác; không thực hiện được việc cấy máu hoặc không tìm ra tác nhân gây bệnh hay kháng nguyên trong máu; không thấy tình trạng nhiễm khuẩn tại các vị trí khác của cơ thể; bác sĩ đang thiết lập việc điều trị theo hướng nhiễm trùng máu. Về mặt xét nghiệm: người bệnh phải có những quy định sau đây: Bệnh nhân người lớn có một hay nhiều lần cấy máu cho kết quả dương tính, vi khuẩn được phân lập từ máu không có liên quan đến nhiễm trùng ở vị trí khác. Hoặc bệnh nhân có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng như: sốt cao trên 38oC, rét run, hạ huyết áp với huyết áp tâm thu dưới 90mmHg; Bệnh nhân trẻ em từ 1 tuổi trở xuống có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng như: sốt trên 38oC, thân nhiệt hạ dưới 37oC, ngừng thở, tim đập chậm; đồng thời có ít nhất một trong các dấu hiệu gồm: phân lập được vi khuẩn thường trú trên da từ hai hoặc nhiều lần cấy máu khác nhau, phân lập được vi khuẩn thường trú trên da từ ít nhất một lần cấy máu trên bệnh nhân có đường truyền mạch máu và bác sĩ thiết lập điều trị kháng sinh phù hợp nhiễm trùng máu…