09:55 12/09/2007

Thị trường gốm sứ xây dựng khởi sắc

Ái Vân

Hơn 1 năm trở lại đây, sự sôi động trở lại của thị trường bất động sản Việt Nam đã tác động thị trường vật liệu xây dựng phát triển mạnh mẽ

Để ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam thực sự phát triển doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm.
Để ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam thực sự phát triển doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm.
Các chuyên gia cho rằng, thị trường vật liệu xây dựng trong nước đang trong giai đoạn phát triển. Với nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh, phía các nhà sản xuất đã không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng và tăng sản lượng.

Tuy nhiên, để ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam thực sự phát triển doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm.

Sau một thời gian dài thị trường vật liệu xây dựng trầm lắng do ảnh hưởng của việc thị trường bất động sản đóng băng. Hơn 1 năm trở lại đây, sự sôi động trở lại của thị trường bất động sản Việt Nam đã tác động thị trường vật liệu xây dựng phát triển mạnh mẽ. Từ đó, cùng với sự khởi sắc của ngành sản xuất vật liệu xây dựng, ngành sản xuất gốm sứ xây dựng trong nước đã dần hồi phục và phát triển như hiện nay.

Thị trường đang sôi động từng ngày

Theo đánh giá, tình hình sản xuất của ngành gốm sứ xây dựng của Việt Nam đang trong giai đọan phát triển mạnh, nhất là ở thời gian khoảng 7 năm nay trở lại đây. Như nghiên cứu của Hiệp hội gốm sứ Việt Nam, trong giai đọan từ năm 2000 - 2005, sự tăng trưởng của thị trường vật liệu xây dựng trong nước ở mức đạt khoảng 10%/năm; đặc biệt trong 2 năm trở lại đây, nhu cầu tiêu thụ của thị trường đã tăng lên mức 20%/năm.

Những năm qua, sản lượng sản xuất các sản phẩm gốm sứ xây dựng tăng mạnh theo từng năm. So với vài năm về trước, sản lượng của ngành gốm sứ xây dựng hiện đã tăng trưởng đáng kể. Đặc biệt trong năm 2007 này, ngành gốm sứ xây dựng đã có những bước phát triển vượt bậc cả về mặt sản xuất lẫn thị trường tiêu thụ.

Như tính toán, năm 2007, mức tiêu thụ sản phẩm gốm sứ xây dựng của thị trường nội địa sẽ ở khoảng 180 triệu m2 gạch ốp lát Ceramit và gạch Granite (tăng 35 triệu m2 so với năm 2006), hơn 9 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, tăng hơn 500 sản phẩm.

Đơn cử với sản phẩm gạch ốp lát tráng men nếu như năm 2000 sản lượng sản xuất là 60 triệu m2/năm thì đến năm 2006 là 170 triệu m2/năm và trong năm 2007 này sản lượng dự kiến sẽ đạt khoảng 200 triệu m2/năm. Tương tự, sản phẩm gạch Granite cũng có mức tăng trưởng mạnh từ sản lượng sản xuất đạt hơn 28 triệu m2/năm tăng lên hơn 30 triệu m2/năm ở năm 2007.

Với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay và sự kiện Việt Nam đã là thành viên của WTO thị trường tiêu thụ sản phẩm không chỉ dừng lại ở nội địa mà được mở rộng tiêu thụ sang các thị trường thế giới. Sau thời gian sản xuất cầm chừng, ngành gốm sứ xây dựng đã chuẩn bị về lực và sức để đưa ngành hội nhập.

Theo nhận định và dự báo của Hiệp hội gốm sứ xây dựng, trong năm 2008 tới đây, thị trường vật liệu xây dựng sẽ tiếp tục sôi động do nhu cầu xây dựng ở trong nước đang tăng cao và hoạt động xúc tiến thương mại xuất khẩu sản phẩm đang được các doanh nghiệp đẩy mạnh.

Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ xây dựng, ông Đinh Quang Huy nhận xét, hiện nay, các đơn vị trong ngành gốm sứ xây dựng đã chủ động mở rộng mối quan hệ liên kết với các công ty nước ngoài, đầu tư và áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến của các nước để cải thiện sản xuất nâng cao chất lượng và giảm chi phí.

Nâng cao chất lượng để đẩy mạnh xuất khẩu

Đến nay, cả nước có khoảng 500 dây chuyền sản xuất gạch, ngói bằng công nghệ Tuynel, đây là công nghệ được xem là tiên tiến nhất trong ngành sản xuất gốm sứ hiện nay của Việt Nam, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được nguyên liệu sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn 1/2 sản phẩm gạch, ngói tiêu thụ trên thị trường cả nước đã được sản xuất từ dây chuyền lò nung Tuynel. Ước tính năm 2006, cả nước đã tiêu thụ khoảng 16 tỷ viên gạch và trên 20 triệu m2 ngói.

Qua khảo sát của hiệp hội, hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành đang chuẩn bị mở rộng quy mô sản xuất. Mục tiêu sản lượng tối thiểu mà các danh nghiệp đề ra là thấp nhất là 10 triệu m2/năm. Ngoài thị trường trong nước, các sản phẩm ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam đã xuất vào một số thị trường trên thế giới.

Hiện nay, sản phẩm gạch ốp lát của Việt Nam đang được xuất vào thị trường của 42 nước và khu vực. Trong đó, một số nước có số thị trường có đang NK một lượng lớn gạch Ceramic như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật, Thái Lan, Australia, Nga, Mỹ. Sản phẩm sứ vệ sinh cũng đang có mặt tại khoảng 32 nước, vùng kinh tế trên thế giới.

Dự đoán, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của ngành gốm sứ xây dựng Việt Nam đạt trên 100 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm gạch ốp lát Ceramic chiếm hơn 70 triệu USD, sứ vệ sinh là 30 triệu USD. Từ năm 2005 đến nay, mức tăng trưởng trung bình của kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gốm sứ xây dựng đã tăng chừng 30%/năm.

Năm 2006, sản lượng gạch ốp lát xuất khẩu đạt 59.648 triệu m2, tăng gần 12.000 m2 so với sản lượng xuất khẩu của năm 2005. Sản phẩm sứ vệ sinh cũng đạt trên 28 triệu sản phẩm, tăng thêm 11 triệu sản phẩm so với năm trước đó.

Mặc dù thời gian qua, tình hình xuất khẩu của mặt hàng gốm sứ xây dựng Việt Nam đã có những kết quả vượt bậc tuy nhiên như khảo sát phần lớn sản lượng tiêu thụ chính vẫn là thị trường nội địa. Trong khi ấy, nhu cầu của thị trường xuất khẩu vẫn còn rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của ngành gốm sứ Việt Nam mở rộng quy mô hoạt động.

Lợi thế lớn nhất của các ngành sản xuất gốm sứ Việt Nam là chủ động được nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực dồi dào và Việt Nam nay đã là thành viên của WTO nên thị trường giao thương đã được mở rộng. Vì vậy, Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ xây dựng cho rằng các doanh nghiệp cần đẩy mạnh song song với việc tận dụng những lợi thế và kết hợp với việc cải tiến công nghệ, dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.

Chủ động được nguồn nguyên liệu là điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất. Với đặc điểm ấy, hiện nay, các cơ sở sản xuất gốm, sứ xây dựng đang tập trung tại các địa phương có điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu như tại phía Bắc có Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên; tại phía Nam là tập trung tại Bình Dương, Đồng Nai và trong tương lai chuyển về một khu vực mới là Bà Rịa - Vũng Tàu.