
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Ba, 04/11/2025
Vũ Khuê
04/11/2025, 07:52
Tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án điện năng lượng tái tạo hiện khoảng trên 35%, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước mới đảm bảo cung ứng được các công đoạn như lập dự án, lắp đặt, đấu nối…
                                            Theo Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện 8 điều chỉnh), đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam dự kiến đạt hơn 236.000 MW, gấp hơn 3 lần hiện nay, với tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 36%.
Cùng với đó, nhiều dự án nhiệt điện, khí điện, thủy điện, điện LNG, điện gió ngoài khơi được triển khai trên khắp cả nước. Mỗi dự án đều cần hàng trăm nghìn chi tiết kỹ thuật, kết cấu thép, thiết bị cơ khí, cáp điện, van, máy biến áp, tua-bin, và hệ thống điều khiển - những sản phẩm mà ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước hoàn toàn có thể tham gia sản xuất. Các chuyên gia nhận định, riêng mảng năng lượng tái tạo có thể tạo ra thị trường hàng tỷ USD cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong 10 năm tới.
CHUYỂN BIẾN NHƯNG CHƯA ĐẠT KỲ VỌNG
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt đã từng bước khẳng định năng lực trong chuỗi cung ứng năng lượng. Tại toạ đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” ngày 3/11, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), cho biết hiện nay, trong các dự án năng lượng, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện và nhiệt điện, tỷ lệ nội địa hóa đã có chuyển biến rõ rệt, nhưng chưa đạt được kỳ vọng như Chính phủ mong muốn.
Đơn cử, trong lĩnh vực điện gió, Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được khoảng 25-30% giá trị thiết bị, chủ yếu ở các hạng mục như: móng trụ, kết cấu thép, cọc, tháp turbine và hệ thống đấu nối. Một số doanh nghiệp trong nước như CS Wind, TOMECO, Lilama, Thiết bị điện Đông Anh EEMC đã có khả năng sản xuất và cung cấp các thiết bị, linh kiện đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Trong năng lượng mặt trời, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 35-40%, tập trung vào sản xuất khung giá đỡ, dây dẫn, tủ điện, inverter và một phần module PV. Việt Nam hiện là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời đứng trong Top 10 thế giới, với sự tham gia của các doanh nghiệp như Boviet Solar, IREX Solar, Vina Solar… tuy nhiên, chuỗi giá trị vật liệu bán dẫn, wafer, cell vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.
Trong lĩnh vực thiết bị điện, truyền tải và lưu trữ, nhiều doanh nghiệp cơ khí - điện của Việt Nam đã có thể làm chủ công nghệ, chủ động đầu tư công nghệ mới để làm tăng tỷ lệ nội địa hóa. Hiện cũng có một số các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực điện có tỷ lệ nội địa hóa rất lớn. Ví dụ như Tập đoàn Á Châu chuyên thiết kế các tủ bảng điện, PCB, PCBA… Hay Công ty cổ phần Vina Electric cũng đã chủ động sản xuất kích điện bằng silicon để thay thế sứ kích điện nhập khẩu từ phía Trung Quốc.
Ông Cường đánh giá những kết quả trên là tín hiệu tích cực, nhưng cũng cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, như Thái Lan (60-65%) hay Malaysia (55-60%) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Nguyên nhân được đại diện Cục Công nghiệp chỉ ra là do hạn chế về tài chính, công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành đang còn thiếu rất nhiều. Một hạn chế nữa là rào cản về kỹ thuật “cản” các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của toàn cầu.
3 THÁCH THỨC KÌM HÃM CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NĂNG LƯỢNG PHÁT TRIỂN
TS. Vũ Văn Khoa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí chỉ ra 3 thách thức hạn chế doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho lĩnh vực năng lượng phát triển.
Thứ nhất, dung lượng thị trường nhỏ. Ông Khoa phân tích theo Quy hoạch điện 8 và điện 8 điều chỉnh, có một số lĩnh vực chúng ta có thể tham gia được nhiều nhưng hiện quy mô còn rất bé. Ví dụ như thủy điện, những nhà máy thủy điện trên 30MW còn rất ít, giờ chủ yếu là mở rộng các nhà máy (như các chương trình mở rộng thủy điện Hòa Bình, thủy điện Hội Quảng, thủy điện Thác Bà…). Hay nói cách khác, bây giờ chỉ còn những tổ máy mở rộng cho nhà máy thủy điện.
Hay thủy điện tích năng, chúng ta đâu đó còn khoảng 4-5 dự án như thủy điện Bắc Ái, thủy điện Hòa Phước, thủy điện Phú Yên, thủy điện Đơn Dương… “Tức là những thứ chúng ta đã làm được thì giờ quy mô còn rất nhỏ”, ông Khoa nhấn mạnh. Điều này đồng nghĩa việc chúng ta thiếu công ăn việc làm, nên cạnh tranh rất quyết liệt về giá, đây là điều không tốt cho các doanh nghiệp.
Đối với nhiệt điện than, chúng ta còn khoảng 3-4 dự án, gồm Quảng Trị 1, Sông Hậu 2, Nam Định. Nhưng mỗi dự án này có khó khăn, vướng mắc riêng.
Với năng lượng xanh là năng lượng mặt trời, năng lượng hydro hay năng lượng gió, ông Khoa cho rằng cũng có cái khó. Tại thời điểm này, các thỏa thuận về giá bán điện, về bao tiêu sản lượng điện, về chuyển đổi ngoại tệ, giá khí thay đổi liên tục. Đặc biệt, khả năng mua được tuabin khí rất là dài, vì vậy doanh nghiệp điện khí bây giờ cũng đang bị chững lại.
Còn về điện gió ngoài khơi, là một lĩnh vực rất tiềm năng mà các doanh nghiệp của chúng ta rất trông chờ, đang ở giai đoạn khởi đầu. Chúng ta mới đang thí điểm giao cho Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) - một đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN), đi khảo sát, chi phí đầu tư cho một dự án đang rất cao. Nên, mặc dù rất tiềm năng, nhưng cũng đang khó khăn cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, năng lực nội tại của doanh nghiệp hạn chế. Ông Khoa cho rằng doanh nghiệp phần lớn là quy mô vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, tiềm lực về kinh tế về nhà xưởng, nhân lực, tài chính yếu. Trong khi đó, chúng ta lại thiếu một ngành công nghiệp vật liệu đủ lớn và đủ rộng, tức là nhiều loại sản phẩm. Nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất đều phải nhập khẩu, nên bị động về tiến độ và giá.
Do các doanh nghiệp nhỏ nên đội ngũ trình độ cao ở nhiều lĩnh vực chưa có nhiều, đặc biệt chúng ta chưa có các phòng tiêu chuẩn đủ mạnh để đo kiểm tiêu chuẩn sản phẩm tham gia được vào chuỗi của các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ ba, tâm lý của các tổng thầu EPC là rào cản. Ông Khoa lý giải: Chủ đầu tư để phương án an toàn thông thường là đi đấu thầu. Đấu thầu quốc tế, về cơ bản các dự án năng lượng lớn chúng ta gần như không bao giờ làm được, mà chỉ làm thầu phụ cho thầu phụ của của tổng thầu EPC nước ngoài.
Các tổng thầu tận dụng thu xếp tín dụng thông qua các nhà cung cấp thiết bị, như vậy những nhà cung cấp thiết bị OEM sẽ cho trả chậm hoặc ưu đãi, nên cơ hội để chúng ta vào rất là khó.
Từ thực tế trên, ông Khoa đề xuất cần phải có một chính sách mạnh mẽ, yêu cầu bắt buộc mỗi một lĩnh vực phải có lộ trình nội địa hóa là bao nhiêu và để thời gian cho chúng ta hấp thụ được. Bởi nếu yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa cao nhưng chúng ta chưa đủ năng lực, chưa sẵn sàng thì cũng không hấp thụ được. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước phải đưa một tỉ lệ nội địa hóa bắt buộc, tạo dung lượng thị trường.
Sau 5 năm kiên định xây dựng nền tảng tiêu dùng - bán lẻ tích hợp, Tập đoàn Masan (HOSE: MSN) chính thức ghi dấu bước ngoặt lợi nhuận.
5 năm kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, kim ngạch thương mại song phương đã tăng 30%, đưa Việt Nam vào top 10 đối tác xuất khẩu hàng đầu của EU. Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng là một thực tế đáng suy ngẫm: lợi thế thuế quan 0% vẫn chưa được khai thác triệt để và khoảng cách giữa tiềm năng với thực tiễn vẫn còn quá xa...
Sự việc hàng loạt tiệm vàng tại khu vực trung tâm phường Hạc Thành đồng loạt đóng cửa trong nhiều ngày qua đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân. Tuyến phố vốn nhộn nhịp nay trở nên vắng lặng bất thường.
Tối 3/11, tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia, Đông Anh (Hà Nội), Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ bế mạc Hội chợ Mùa Thu lần thứ nhất – 2025 và phát động quyên góp ủng hộ đồng bào vùng thiên tai. Sự kiện khép lại một hành trình hội tụ, sáng tạo và kết nối, mở ra hướng đi mới trong xúc tiến thương mại – đầu tư – văn hóa của Việt Nam.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: