Trực tuyến: “Doanh nghiệp FDI, minh bạch thuế và túi tiền quốc gia”
Các chuyên gia nói gì về hiện tượng chuyển giá của doanh nghiệp FDI, cũng như sự công bằng trong chính sách thuế nói chung?
Hai năm về trước, Thanh tra Chính phủ từng tiến hành một đợt thanh tra về việc chấp hành pháp luật về thu nộp ngân sách nhà nước tại khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai.
Kết quả thanh tra đã nêu lên nhiều vấn đề bất cập liên quan đến vấn đề này cũng như từng doanh nghiệp cụ thể, trong đó đặc biệt đáng chú ý là tình trạng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên tục khai lỗ lớn trong thời gian qua.
Thanh tra Chính phủ phát hiện là trong bối cảnh khai lỗ liên tục và lớn, một số doanh nghiệp vẫn có “tốc độ tăng doanh thu hàng năm vẫn cao, hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục được mở rộng, nhiều doanh nghiệp đã có số lỗ vượt quá số vốn chủ sở hữu”.
Để tạo một diễn đàn với nhiều góp ý, khuyến nghị chính sách liên quan đến hiện tượng chuyển giá, lách thuế, trốn thuế của doanh nghiệp FDI, cũng như sự công bằng trong chính sách thuế nói chung, VnEconomy phối hợp với ActionAid Vietnam tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Doanh nghiệp FDI, minh bạch thuế và túi tiền quốc gia”, diễn ra từ 14h - 16h chiều nay (thứ Tư, ngày 29/10/2014), với sự tham gia của các diễn giả:
- Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế
- TS. Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế
- TS. Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính)
- Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế - Deloitte Việt Nam
Sau đây là nội dung cuộc giao lưu trực tuyến:
M.H:
Tôi làm tại một doanh nghiệp FDI. Ngành thuế hiện đang tiến hành nhiều đợt thanh kiểm tra đối với các doanh nghiệp FDI. Làm thế nào để có thể duy trì kỷ luật tài chính, thuế, trong khi không khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy áp lực và mất niềm tin vào môi trường đầu tư của Việt Nam?
Ông Lê Đăng Doanh:
Theo tôi, việc thanh tra kiểm tra nên được quy định rõ ràng và tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, công khai minh bạch sẽ tránh được những cảm nhận không thuận lợi của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp thường xuyên phản ánh bị thanh tra quá nhiều lần, thanh tra kéo quá dài, và rất phức tạp, chồng chéo, rất mong các cơ quan có liên quan phối hợp để giảm bớt sự phiền hà đối với doanh nghiệp.
Andy Nguyen:
Ông/bà thấy thế nào về đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp FDI hiện nay?
Ông Lê Đăng Doanh:
Cộng đồng doanh nghiệp FDI đã có đóng góp rất đáng trân trọng trong phát triển những ngành công nghiệp mới vận dụng công nghệ tiên tiến, đóng góp quan trọng cho xuất khẩu. Tuy vậy, đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu ngân sách còn chưa tương xứng.
Andy Nguyen:
Báo đăng rằng Bộ Tài chính trong 9 tháng đầu năm nay đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.990 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá, truy thu, phạt và truy hoàn là 1.559,8 tỷ đồng, giảm lỗ 4.720 tỷ đồng; giảm khấu trừ 99,9 tỷ đồng. Các chuyên gia bình luận gì về các con số này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Những nỗ lực của Bộ Tài chính là rất đáng hoan nghênh và đi đúng hướng để tạo ra sự bình đẳng trong đóng góp vào ngân sách của các loại hình doanh nghiệp. Có lẽ các nỗ lực đó cần được tiếp tục để giảm bớt tình trạng chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI.
TomTom:
Theo các chuyên gia, thì đang có những lỗ hổng pháp luật nào về thuế của Việt Nam liên quan đến doanh nghiệp FDI?
Ông Lê Đăng Doanh:
Gần đây chúng ta đã phát hiện doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mở rộng kinh doanh, đầu tư tăng thêm, nhưng không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhiều công trình đã cho thấy doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có hành vi chuyển giá.
Đầu năm 2014, Bộ Tài chính có công bố một báo cáo của Tổng cục Thuế thanh tra 870 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và đã phát hiện 720 doanh nghiệp có vi phạm, trong đó có tỉnh như Quảng Ngãi có 27/27 doanh nghiệp đã có vi phạm, An Giang có 7/7 doanh nghiệp vi phạm. Tức là tỷ lệ vi phạm 100%.
Tỷ lệ vi phạm ở Tp.HCM là 85%, ở Hà Nội là 90%. Tại Hà Nội, có 326/332 doanh nghiệp vi phạm. Cơ quan chức năng đã truy thu được 1.500 tỷ đồng tiền thuế.
Thủ đoạn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trốn thuế chủ yếu là chuyển giá, tức là nâng giá đầu vào mà các công ty mẹ bán cho các công ty con ở Việt Nam lên mức giá rất cao và mua lại các sản phẩm của công ty con sản xuất ở Việt Nam với một mức giá rất thấp để cho công ty con ở Việt Nam không có lãi và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Công ty mẹ có trụ sở ở một nền kinh tế có tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn hẳn. Chẳng hạn, ở Hồng Kông, thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ là 15%, và công ty được lợi bằng cách chuyển toàn bộ lợi nhuận vào công ty mẹ và hưởng mức thuế thấp.
Một thủ đoạn khác được phát hiện là công ty con phải chịu chi phí quảng cáo không chỉ của công ty con quảng cáo ở Việt Nam, mà còn chịu cả phần chi phí quảng cáo của công ty mẹ. Có công ty như Adidas phải chịu chi phí quản lý của quá nhiều cấp. Adidas Việt Nam chịu phí quản lý của Adidas châu Á-Thái Bình Dương tại Singapore và chi phí của Adidas ở Đức.
Qua những ví dụ này, chúng ta thấy, cơ quan thuế của Việt Nam đã chậm phát hiện các thủ đoạn chuyển giá và trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, và các luật về thuế và phí của Việt Nam cần được bổ sung và hoàn chỉnh để có thể xử lý được những thủ đoạn mà chúng ta đã phát hiện.
Cũng phải nói, việc chuyển giá này là phổ biến và các nước đều gặp, không phải chỉ xuất hiện ở các hãng bán lẻ hay sản xuất bia, nước ngọt, mà xuất hiện cả ở các ngân hàng và các công ty tài chính, và việc phát hiện và xử lý là hoàn toàn không dễ dàng vì các công ty đó có các chuyên gia về tài chính - kế toán rất thành thạo.
Họ nghiên cứu, so sánh thuế từng nước, luật kế toán từng nước để tìm và tận dụng mọi lỗ hổng.
Bởi vậy, tìm ra việc trốn thuế, chuyển giá của các công ty nước ngoài là một cuộc đấu trí của hai bên thu thuế và nộp thuế. Bên nào trí tuệ., “võ nghệ” cao cường hơn thì bên đó sẽ thắng.
Quyet:
Việc chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp FDI, theo ông/bà có nguyên nhân từ đội ngũ thực thi? Nếu có thì có phải là nguyên nhân quan trọng hay không?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Chào bạn,
Cơ quan thuế là cơ quan thừa hành, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Tài chính để quản lý thu ngân sách nhà nước. Do vậy, không thể nói rằng cơ quan thuế (đội ngũ thực thi) là nguyên nhân góp phần vào tình trạng chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp.
Việc chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp, nếu có, hoàn toàn xuất phát từ bản thân doanh nghiệp. Hiện nay, cơ quan thuế đang tích cực xây dựng, đào tạo đội ngũ có chuyên môn sâu trong lĩnh vực chuyển giá để có thể thực hiện các cuộc thanh tra chuyển giá hiệu quả, thu hồi các khoản thuế mà có thể doanh nghiệp đã thu lợi từ các nghiệp vụ chuyển giá trước đây.
Hiệu quả của việc thanh tra chuyển giá đã được thể hiện qua kết quả rất khả quan trong các năm qua. Các doanh nghiệp FDI cũng đã nhận thấy vấn đề này và đang tự giác điều chỉnh kết quả hoạt động kinh doanh về mức giá thị trường, tránh bị phạt thuế nếu bị thanh tra chuyển giá sau này.
Nhiều doanh nghiệp những năm trước lỗ năm nay đã có lãi. Số lượng doanh nghiệp FDI kê khai thua lỗ từ đầu năm đến nay đã giảm ro rệt, nhiều doanh nghiệp đã tự giác hơn trong kê khai, điều chỉnh chi phí.
Quang Thọ:
Nếu phát hiện doanh nghiệp lỗ nhiều năm nhưng vẫn đầu tư mở rộng liên tục trong thời gian dài, theo ông/bà, cơ quan quản lý nên ứng xử thế nào với trường hợp này.
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Chào bạn,
Luật sửa đổi Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ giữa 2013 đã đưa ra cơ chế giúp cơ quan thuế xây dựng tiêu chí, cơ chế quản lý doanh nghiệp theo cấp độ rủi ro.
Do vậy, trong trường hợp này, cơ quan thuế thông thường sẽ soát xét, phân tích số liệu báo cáo tài chính qua các năm của doanh nghiệp, từ đó sẽ xác định được các rủi ro về tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên nhiều sắc thuế khác nhau bao gồm cả rủi ro về chuyển giá.
Trên cơ sở đó, cơ quan thuế sẽ xác định phạm vi và thời gian cần thiết để thanh tra doanh nghiệp. Nếu phát hiện các sai phạm về doanh thu, chi phí, hiện tượng chuyển giá..., thì sẽ tiến hành truy thu thuế và phạt theo quy định.
Nhat Linh:
Có ý kiến cho rằng, cơ quan thuế cập nhật chính sách thuế mới cho doanh nghiệp còn chậm, người kê khai thuế chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và kịp thời, ông/bà đánh giá thế nào về ý kiến này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Khi các văn bản quy phạm pháp luật về thuế được ban hành (văn bản hướng dẫn dưới luật), phòng tuyên truyền hỗ trợ ở các cục thuế địa phương sẽ có hướng dẫn, thông báo để tuyên truyền cho người nộp thuế. Tổng cục Thuế cũng thường xuyên ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết hơn để giúp người nộp thuế hiểu rõ hơn các chính sách thuế.
Gần như tất cả các cục thuế địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn, đều có website để cập nhật thường xuyên các chính sách mới. Do vậy, người nộp thuế nếu thực sự quan tâm thì có thể truy cập và kiểm tra, theo dõi thường xuyên các thay đổi về chính sách.
Ngoài cơ quan thuế, rất nhiều công ty tư vấn trên thị trường cũng thường xuyên tổ chức hội thảo ở các quy mô khác nhau, song hành cùng cơ quan thuế để cập nhật, giải đáp vướng mắc cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, người nộp thuế đang có rất nhiều cơ hội để tự cập nhật và thông qua các công ty tư vấn để nắm được và áp dụng các chính sách thuế được đúng đắn kịp thời.
Trần Vinh:
Có ý kiến cho rằng nhiều lãnh đạo/ người dân chưa có kiến thức về công bằng thuế, ông/bà đánh giá gì về quan điểm này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Những nhà làm luật, khi tiến hành xây dựng, sửa đổi luật, chính sách kinh tế, thương mại, thuế, hải quan v.v. đều phải cân nhắc các khía cạnh liên quan tới công bằng xã hội, các tầng lớp doanh nghiệp, dân cư.
Quá trình làm luật, văn bản dưới luật cũng được thẩm định, lấy ý kiến từ các bộ, ban ngành đại diện các lĩnh vực có liên quan để đảm bảo mức độ công bằng phù hợp nhất cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách ban hành trong từng thời kỳ có thể chưa hoàn toàn phù hợp, và sẽ được điều chỉnh thích hợp cho những lần sau.
Quan niệm công bằng hay chưa công bằng, theo đó, khó xác định, cần nhìn nhận vào số đông những người áp dụng và ảnh hưởng của các chính sách này.
Tham Lam:
Liệu có phải là Việt Nam đang bất lực với các hành vi chuyển giá, lách thuế và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Trước hết mình cũng phải đánh giá vai trò của doanh nghiệp FDI trong thời gian qua đối với nền kinh tế, ví dụ họ đã ứng dụng công nghệ, quản lý sản xuất kinh doanh,..chính doanh nghiệp FDI đã góp phần làm cho hàng hoá phong phú, chất lượng hơn và đó cũng là điều kiện để Việt Nam học tập trong quản lý và sử dụng lao động.
Trên cơ sở đóng góp về vốn, lao động, tay nghề cho lao động Việt Nam, ứng dụng khoa học công nghệ...từ đó đóng góp vào ngân sách nhà nước thì số thu từ doanh nghiệp FDI khá ổn định. Từ 2008 thu từ doanh nghiệp FDI gần 44 nghìn tỷ, đến 2013 đã 111 nghìn tỷ, trong dự toán 2014 số thu gần 112 nghìn tỷ. Tỷ trọng bình quân khoảng 14%, còn nếu thu nội địa cũng trên 16%.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề quản lý, trốn thuế được cơ quan quản lý và dư luận quan tâm, vì trong quá trình quản lý, thanh tra cũng thấy rõ việc thất thu này, cụ thể là hiện tượng chuyển giá.
Thực tế chúng ta thấy rõ, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn có lãi thì việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh là tất yếu, chẳng hạn như SamSung, Toyota... có rất nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ triền miên nhưng vẫn tiếp tục rót vốn đầu tư, kinh doanh.
Câu hỏi đặt ra, tại sao họ lỗ mà vẫn đầu tư, do đó dư luận và cơ quan quản lý đặt ra nghi vấn là đương nhiên.
Tuy nhiên, khi nói về chuyển giá, có thể chúng ta biết, nhưng để kiểm tra, có chứng cứ, thu được thuế là điều không dễ. Vì chuyển giá là một hình thức trốn thuế, phần lẽ ra phải nộp thuế ở Việt Nam thì họ chuyển về công ty mẹ ở nước ngoài, từ đó khiến Việt Nam bị thiệt thòi.
Chuyển giá có hai khía cạnh: thông qua nâng giá thiết bị, công nghệ, vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài vào Việt Nam...từ đó khiến chi phí của công ty ở Việt Nam cao lên, dẫn tới thua lỗ. Đây là hình thức phổ biến.
Ví dụ, họ nhập vật tư, thiết bị từ doanh nghiệp mẹ chuyển vào, khai tăng lên khiến doanh nghiệp trong nước lỗ, trong khi công ty mẹ vẫn lãi.
Thứ hai là chiều từ Việt Nam đi, tức là lẽ ra phải xuất hàng hoá bằng giá thị trường thì họ lại khai thấp đi để bán ở nước ngoài từ đó khiến công ty ở Việt Nam bị lỗ.
Hoặc họ có thể dùng các công ty tư vấn của công ty mẹ để định giá tư vấn cao lên, mục đích cuối cùng là tăng chi phí, giảm doanh thu để từ đó tránh được thuế.
Muốn chống được chuyển giá thì phải có biện pháp để tìm ra bằng chứng thì mới có thể truy thu được. Nhưng câu chuyện chống chuyển giá không chỉ là của Việt Nam mà là của khu vực và quốc tế vì muốn kiểm tra được vấn đề đó thì phải biết giá đầu vào cùng một mặt hàng đó khi chuyển vào Việt Nam là bao nhiêu, còn chuyển vào các nước khác là bao nhiêu?
Khó ở chỗ là không có cơ quan nào cung cấp cho mình giá đó, vì thông thường cơ quan thuế các nước cũng phải bảo vệ doanh nghiệp của họ.
Do đó, vấn đề chuyển giá là vấn đề của quốc tế. Trong khi đây là vấn đề khá mới ở Việt Nam nên kinh nghiệm và trình độ để đối phó với hành vi này là còn hạn chế. Cơ quan thuế Việt Nam vẫn đang nỗ lực, tuy nhiên hiệu quả thì chưa được cao.
Một vài con số cho thấy nỗ lực chống chuyển giá của cơ quan thuế trong mấy năm qua. Ví dụ, năm 2010 cơ quan thuế đã thanh tra 575 doanh nghiệp lỗ từ 2005 - 2009 thì kết quả giảm lỗ được 4.006 tỷ đồng, truy thu được 212 tỷ.
2011 kiểm tra 856 doanh nghiệp lỗ, giảm lỗ 4.400 tỷ, truy thu và phạt 1.650 tỷ đồng.
2013 kiểm tra 1.233 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá thì truy thu, giảm lỗ 1.600 tỷ đồng.
Tính luỹ kế từ 2010 đến 2013 thì đã thanh tra tại 5.404 đơn vị, truy thu được 9.628 tỷ đồng.
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Quy định về xác định giá thị trường trong giao dịch với các bên liên kết mới thực sự được áp dụng theo đúng ý nghĩa, trong vòng 5-6 năm trở lại đây.
So với các nước đã có hệ thống quản lý và thanh tra, giám sát hoạt động chuyển giá phát triền hàng chục năm; những bước tiến và thành quả đạt được của Bộ tài chính, Tổng cục thuế trong những năm qua không phải là nhỏ.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính cũng tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cũng như nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra chuyển giá để đẩy mạnh hoạt động thanh tra chuyển giá, góp phần lành mạnh hóa hoạt động chuyển giá ở các doanh nghiệp (nếu có).
Thu Kim:
Thưa bà Cúc, hồi bà còn công tác ở Tổng cục thuế, vấn đề chuyển giá đã được quan tâm như thế nào? Vì sao chưa có vụ việc nào được kết luận và công bố chính thức mà chỉ dừng ở các “nghi án”, để rồi sau đó ngành thuế tự “xử lý nội bộ” với doanh nghiệp?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Thực tế, khi tôi còn làm ở Tổng cục Thuế thì vấn đề chuyển giá cũng đã được quan tâm, Bộ Tài chính khi đó đã có Thông tư 117/2005 hướng dẫn các doanh nghiệp xác định giá thị trường giữa các bên có quan hệ liên kết và đến tháng 2/2010 BTC đã ban hành thông tư 66 thay thế thông tư 117.
Qua thực tế thanh tra, giám sát đã truy thu được gần 10.000 tỷ tiền thuế từ doanh nghiệp FDI.
Một số vụ việc và số liệu chuyển giá đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
H.B:
Có chuyên gia nhận xét tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, chuyển giá... hiện giờ vẫn diễn biến phức tạp, ông/bà có đồng tình?
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên tôi đã trình bày, có thể nói, tình trạng chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI là phổ biến và thiệt hại đối với nguồn thu ngân sách về nghiêm trọng.
Rất mong cơ quan thuế sẽ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thuế các nước có công ty mẹ để có thể thu thuế một cách công bằng, đúng pháp luật.
Hiện tượng này cũng xuất hiện ở nhiều nước và ngay cả những nước có nền kinh tế thị trường rất phát triển, bộ máy giám sát có tính chuyên nghiệp cao cũng vẫn phát hiện ra được những vụ trốn thuế, lậu thuế lên tới hàng tỷ USD, và mức phạt là rất cao. Vì vậy, cần có một chuyên đề về đối phó với chuyển giá và trốn thuế để nâng cao trình độ, kỹ năng đối phó với tình trạng này.
DuyNguyen:
Ông/bà thấy hiện tượng chuyển giá, lách thuế, trốn thuế của doanh nghiệp FDI ảnh hưởng thế nào tới ngân sách của Việt Nam?
Ông Lê Đăng Doanh:
Nếu xét tỷ lệ của doanh nghiệp FDI hiện chiếm khoảng 19-20% GDP, đóng góp 68% vào tổng kim ngạch xuất khẩu, thì đóng góp của các doanh nghiệp này vào ngân sách còn rất khiêm tốn.
Như vậy, các doanh nghiệp FDI không những chỉ được ưu đãi rất cao về miễn giảm thuế thu nhập trong những năm đầu kinh doanh, miễn giảm thuế đất, mà thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không thu được đầy đủ.
Bên cạnh thiệt hại đối với ngân sách, tình trạng này cũng tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong nước, vì các doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ hơn, nguồn vốn ít hơn, nhưng lại không được ưu đãi như các doanh nghiệp FDI về mặt bằng, tiền thuê đất…
Trong tình trạng ngân sách rất căng thẳng hiện nay, việc thu đúng, thu đủ là hết sức cần thiết, cho nên cần huy động đúng luật đối với các doanh nghiệp FDI và tạo ra một mặt bằng cạnh tranh bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp trong nước.
T.Cuong:
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần phải làm gì để hạn chế chuyển giá - trốn thuế?
Ông Vũ Như Thăng:
Chống chuyển giá là công tác vô cùng phức tạp, để hạn chế hiện tượng này, trong thời gian qua Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 1250/QĐ-BTC ngày 21/5/2012 về việc phê duyệt chương trình hành động kiểm soát hoạt động chuyển giá giai đoạn 2012-2015.
Dựa trên chương trình hành động đó, cơ quan thuế đã triển khai mạnh thanh tra, kiểm tra trong năm 2012-2013 và đã mang lại nhiều kết quả và tác động không nhỏ đến tính tuân thủ của nhiều doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy định pháp luật về thuế, tác động tốt tới môi trường đầu tư, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư chân chính thực hiện đầu tư vào Việt Nam.
Trong giai đoạn tới, để hạn chế hiện tượng này, tôi nghĩ cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý đối với hoạt động chuyển giá; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu làm cơ sở cho công tác phân tích rủi ro và thanh tra hoạt động chuyển giá; mở rộng phạm vi thanh tra và tích cực đẩy mạnh công tác thanh tra, công tác truyền thông; và trên hết là cần có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành liên quan.
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên đã nói, đầu năm 2014, Tổng cục Thuế đã có báo cáo sơ bộ về 870 doanh nghiệp FDI. Báo cáo về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cũng có một chương nói về tình trạng chuyển giá và trốn thuế do GS. E. Malesky chủ biên.
Như vậy, Việt Nam cần có nghiên cứu tổng kết các biểu hiện, các phương pháp, các hình thức chuyển giá và trốn thuê thu nhập doanh nghiệp, tổ chức hợp tác với các cơ quan có trách nhiệm của các nước có trụ sở của công ty mẹ để có biện pháp phòng ngừa, bổ sung sửa đổi những quy định pháp luật bảo đảm thu đúng, thu đủ đối với doanh nghiệp FDI.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận được với những số liệu mà công ty mẹ báo cáo với nước chủ nhà, có phân tích, đối chiếu với những số liệu của chi nhánh hoạt động ở Việt Nam để phát hiện ra những lỗ hổng như nâng giá đầu vào, dìm giá sản phẩm đầu ra của chi nhánh ở Việt Nam, phân bổ những chi phí không hợp lý về quảng cáo và quản trị để tạo ra tình trạng thua lỗ nhiều năm.
T.Cuong:
Hành lang pháp lý hiện tại đủ sức nặng để quản lý điều này chưa?
Ông Vũ Như Thăng:
Chính sách quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa qua đã có những bước thay đổi tích cực cả về mặt pháp lý và thực tế ứng dụng.
Về cơ bản, các quy định về xác định giá thị trường đối với sản phẩm trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết được dựa trên hướng dẫn của OECD, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Việc quy định các bên liên kết đã rõ ràng, cụ thể hơn các quy định trước đây. Đặc biệt, nguồn thông tin, dữ liệu được phép sử dụng để phân tích, so sánh về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xác định giá thị trường của doanh nghiệp và cơ quan thuế, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tăng cường thu cho ngân sách nhà nước, góp phần bảo vệ lợi ích và quyền đánh thuế của quốc gia và đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo tôi để triển khai có hiệu quả thì việc tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, các quy định về thời hạn thanh tra; quy định về vốn mỏng, quy định về thông tin, chính sách tăng cường nhân sự có trình độ cao trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các doanh nghiệp có hiện tượng chuyển giá là cần thiết.
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên đã nói, đầu năm 2014, Tổng cục Thuế đã có báo cáo sơ bộ về 870 doanh nghiệp FDI. Báo cáo về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cũng có một chương nói về tình trạng chuyển giá và trốn thuế do GS. E. Malesky chủ biên.
Như vậy, Việt Nam cần có nghiên cứu tổng kết các biểu hiện, các phương pháp, các hình thức chuyển giá và trốn thuê thu nhập doanh nghiệp, tổ chức hợp tác với các cơ quan có trách nhiệm của các nước có trụ sở của công ty mẹ để có biện pháp phòng ngừa, bổ sung sửa đổi những quy định pháp luật bảo đảm thu đúng, thu đủ đối với doanh nghiệp FDI.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận được với những số liệu mà công ty mẹ báo cáo với nước chủ nhà, có phân tích, đối chiếu với những số liệu của chi nhánh hoạt động ở Việt Nam để phát hiện ra những lỗ hổng như nâng giá đầu vào, dìm giá sản phẩm đầu ra của chi nhánh ở Việt Nam, phân bổ những chi phí không hợp lý về quảng cáo và quản trị để tạo ra tình trạng thua lỗ nhiều năm.
Cong Thang:
Trong cuộc khảo sát vừa được thực hiện trên VnEconomy, với câu hỏi “Bạn có nghĩ rằng chính sách thuế ở Việt Nam đã công bằng với các đối tượng nộp thuế?”, trong số gần 6.900 ý kiến phản hồi, có đến gần 6.300 độc giả cho rằng “chưa công bằng”, ông/bà đánh thế nào về kết quả này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn cao. Do vậy, có thể có nhiều ý kiến cho rằng là chưa công bằng. Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính, cùng các bộ ban ngành có liên quan, vẫn luôn nỗ lực cải thiện hệ thống chính sách thuế, hải quan; đưa ra các chính sách ưu đãi công bằng, cũng như lộ trình để giảm thuế.
Trong 5 năm tới, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ đạt được mức trung bình so sánh được với các nước trong khu vực, tạo điều kiện công bằng hơn cho các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Thanh Huyen:
Theo đánh giá của ông/bà việc sự tham gia của người nộp thuế trong việc góp ý kiến trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế ở Việt Nam có nhiều không, vì sao?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Trong quá trình soạn thảo luật và các văn bản dưới luật, ngoài các nhà làm luật trực tiếp tham gia, các bản dự thảo cũng được công bố trên các website để các tổ chức, cá nhân quan tâm vào đọc và tham gia ý kiến.
Các chuyên gia, các ban chuyên trách ở các Bộ, ngành có liên quan, cùng với các hội chuyên môn, các công ty tư vấn, đại diện cho người nộp thuế trên các phương diện khác nhau, cũng đưa ra ý kiến chuyên môn để đóng góp trong quá trình soạn thảo.
Theo đó, các chính sách kinh tế, thuế, hải quan cũng ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với yêu cầu quản lý và áp dụng thực tiễn từ phía người nộp thuế.
Nguyễn Thế Phương:
Quốc hội kỳ này cũng nghe trình bày dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi. Vậy chính sách thu hút FDI, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế có cần được xem xét lại? Và nếu có thì cần phản ánh trong luật như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Theo quy định của các luật thuế hiện hành thì ưu đãi thuế không phân biệt doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nước cũng như giữa các thành phần kinh tế, mà việc ưu đãi thuế áp dụng theo địa bàn, lĩnh vực và quy mô doanh nghiệp.
Chính sách ưu đãi thuế thay đổi nhằm thu hút đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực cần kêu gọi đầu tư để đảm bảo nền kinh tế phát triển đồng đều, bền vững. Hiện nay chính sách thuế đang hướng tới ưu đãi nhằm phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, biển đảo, xã hội hoá, ứng dụng công nghệ cao.
Quốc hội lần này bàn đến sửa đổi các luật thuế, trong đó có nội dung ưu đãi thuế nhưng không có quy định riêng cho doanh nghiệp FDI.
Minh Thúy:
Về việc sửa đổi một số điều tại các luật thuế đang được quốc hội lấy ý kiến, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục đề nghị bỏ quy định khống chế chi phí quảng cáo, để tạo sự công bằng trong cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, ý kiến của ông/bà?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Về vấn đề chi phí quảng cáo, tiếp thị, hoa hồng…trong những năm gần đây đã có nhiều sửa đổi cơ bản.
Trước năm 2013 trở về trước, thì doanh nghiệp mới thành lập trong 3 năm đầu có tỷ lệ khống chế là 15%. Từ năm thứ 4 trở đi chỉ còn 10%. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi áp dụng từ 1/1/2014 đã nâng tỷ lệ khống chế lên 15% áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.
Dự thảo Luật sửa đổi trình Quốc hội lần này thì chỉ khống chế 15% đối với chi phí quảng cáo, còn các chi phí khác thì theo thực chi liên quan đến sản xuất, kinh doanh chứ không bị khống chế.
Theo quan điểm của cá nhân tôi, hướng xử lý này là tương đối phù hợp với các điều kiện của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Theo số liệu khảo sát, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì tỷ lệ chi quảng cáo, môi giới đều ở mức thấp hơn 15%.
Trong điều kiện hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chưa thực sự bình đẳng, vì một số doanh nghiệp có sự hỗ trợ chi phí quảng cáo từ công ty mẹ, trong khi một số doanh nghiệp không được hỗ trợ thì không đủ nguồn lực để chi cho quảng cáo, tiếp thị…Nếu không khống chế thì không đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nên việc còn khống chế chi phí quảng cáo trong giai đoạn hiện nay là phù hợp.
Ánh Hồng:
Việc áp dụng chính sách thuế của cán bộ thuế ở các chi cục không nhất quán với quy định, để giải quyết tình trạng này, theo ông bà cần có biện pháp gì?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Đúng là trong thực tế, do một số văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, minh bạch nên còn có hiện tượng cùng một nội dung nhưng cán bộ thuế và doanh nghiệp hiểu khác nhau, thậm chí cán bộ thuế giữa các địa phương, giữa các chi cục cũng còn hiểu khác nhau, gây khó khăn trong thực thi.
Vấn đề này cũng đã được phản ánh lên lãnh đạo ngành thuế, Bộ Tài chính. Để chấm dứt tình trạng này thì các văn bản pháp quy hướng dẫn phải thống nhất, rõ ràng, từ luật, nghị định, đến các thông tư, các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Vừa qua, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cũng đã có các công văn hướng dẫn cách xử lý thống nhất trên toàn quốc đối với một số nội dung chưa rõ ràng, còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
T.C:
Nếu phát hiện doanh nghiệp lỗ nhiều năm nhưng vẫn đầu tư mở rộng liên tục trong thời gian dài, theo ông/bà, cơ quan quản lý nên ứng xử thế nào với trường hợp này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Đã phát hiện rất nhiều công ty thường xuyên báo lỗ trong 10-20 năm, nhưng vẫn mở rộng đầu tư kinh doanh, tăng công suất thêm tới 500%, thì cơ quan hữu quan của Việt Nam cần có biện pháp thanh tra, giám sát và liên hệ với các cơ quan liên quan ở các nước để tìm kiếm sự trợ giúp và phát hiện ra những điều không bình thường trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
Bình thường, không doanh nghiệp nào có thể tiếp tục đầu tư trong khi vẫn báo lỗ quá 3 năm.
Hiện tượng này xuất hiện ở nhiều nước và ta không nên quá “hốt hoảng” hay “bi kịch hóa” hiện tượng này. Không nên có những phản ứng có tính chất kỳ thị hay lên án dựa trên cảm tính. Trong cái sai của họ cũng có cái yếu kém của mình. Vì vậy, phát hiện phải dẫn đến hoàn chỉnh khung pháp luật và nâng cao tính chuyên nghiệp của các cơ quan và chuyên viên của Việt Nam.
Hai Ha:
Đóng thuế vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ, có nước việc đóng thuế còn thuộc phạm trù đạo đức và danh dự, vậy theo ông Việt Nam nên làm gì để tiến tới điều này?
Ông Vũ Như Thăng:
Những cải cách quan trọng về chính sách thuế từ đầu những năm 1990 đến nay đã thiết lập một hệ thống thuế với đầy đủ các sắc thuế của một hệ thống thuế hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và phù hợp với xu hướng chung về cải cách thuế trên thế giới, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục thực hiện cải cách chính sách thuế nhằm cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước với diện bao quát ngày càng rộng, góp phần tăng tiềm lực tài chính để đảm bảo các nhiệm vụ chi của Nhà nước.
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam đã đề ra định hướng tổng quát là hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế; đồng thời, đảm bảo mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả.
Bên cạnh đó, công tác quản lý thuế, phí và lệ phí sẽ được thực hiện theo thống nhất, minh bạch dựa trên ba nền tảng cơ bản là thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hoá cao.
Thực hiện định hướng này, trong những năm tới, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam sẽ tiếp tục được cải cách cả về chính sách thuế và đổi mới về quản lý thuế theo xu hướng và thông lệ chung trên thế giới, tăng cường tính kỷ luật tài khóa trong quản lý thu và hành thu.
Hai Ha:
Có ý kiến cho rằng nhiều lãnh đạo/người dân chưa có kiến thức về công bằng thuế, ông/bà đánh giá gì về quan điểm này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Việc công khai minh bạch các thông tin về thuế, giải thích và làm rõ những mặt được và chưa được của tình trạng thu thuế, lạm thu, thất thu, thu chi ngoài pháp luật cần được phổ biến rộng rãi trong xã hội, không có bất kỳ vùng cấm nào.
Một nền báo chí có trách nhiệm, tự do, tự chịu trách nhiệm sẽ đóng góp rất quan trọng để nâng cao ý thức của toàn xã hội đối với sự công bằng trong thu thuế và sử dụng tiền thuế của dân.
TuQuyen:
Một cuộc khảo sát của Action Aid cho thấy, chính sách thuế cần có tính lâu dài, hạn chế thay đổi, có tính thống nhất giữa các chính sách và thời gian áp dụng để người nộp thuế dễ áp dụng, văn bản hướng dẫn phải cụ thể, đầy đủ. Theo ông/bà, làm thế nào để giải quyết được tình trạng này?
Cũng từ khảo sát của Action Aid cho thấy: khi nhận xét về tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện của các văn bản pháp luật thuế hiện hành, có 62,71% số cán bộ và 88,89% số doanh nghiệp đánh giá ở mức trung bình và thấp. Đồng thời, 27% cán bộ thuế và hơn 11% số doanh nghiệp có ý kiến đánh giá cao về tính minh bạch, rõ ràng của chính sách thuế hiện hành. Ông bà đánh giá thế nào về con số trên?
Ông Lê Đăng Doanh:
Nhược điểm lớn của chính sách thuế của Việt Nam là hay thay đổi, bị điều chỉnh bởi quá nhiều những thông tin hướng dẫn dưới luật, làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam kém minh bạch, thiếu ổn định.
Việt Nam đang có những bước hội nhập quốc tế rất quan trọng trong thời gian tới như thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU), tham gia Hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Vì vậy, chính sách thuế của Việt Nam phải có sự điều chỉnh phù hợp với những cam kết hội nhập để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp của các nước khác.
Kết quả khảo sát đó phản ánh thực tế là các doanh nghiệp than phiền rất nhiều về tính phức tạp trong quan hệ với cơ quan thuế. Các doanh nghiệp Việt Nam phải cần đến 872 giờ để nộp thuế hàng năm, so với mức bình quân 172 giờ của các nước ASEAN khác. Điều này cho thấy gánh nặng về chi phí thời gian và tiền bạc đối với doanh nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị cần nhanh chóng sửa đổi các quy định để tiến gần đến mức bình quân của ASEAN.
Ngành thuế đã có nỗ lực trong việc vận dụng công nghệ thông tin, cải tiến các thủ tục, song kết luận và chỉ đạo của Thủ tướng cho thấy, không có lý do gì để hài lòng với thực trạng hiện này.
AnVu:
Có ý kiến cho rằng, cơ quan thuế cập nhật chính sách thuế mới cho doanh nghiệp còn chậm, người kê khai thuế chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và kịp thời, ông bà đánh giá thế nào?
Ông Lê Đăng Doanh:
Chính sách thuế của Việt Nam thay đổi nhanh quá và rất phức tạp, có thể được giải thích khác nhau. Rất cần có sự thống nhất về cách hiểu, cách vận dụng, và áp các mức thu, các khoản loại trừ trong thu thuế để tránh những tranh chấp không cần thiết.
Việc áp dụng chính sách thuế của cán bộ thuế ở các chi cục thường không nhất quán với quy định, ông thấy sao?
Doanh nghiệp than phiền nhiều về hành vi và cách giải thích của cán bộ thuế. Hiện tượng sách nhiễu và lạm dụng chức quyền đã được nhắc đến trên các cơ quan báo chí nhiều lần.
Rất mong cơ quan thuế sẽ có các biện pháp thích hợp, thực hiện công khai mình bạch để giảm bớt tình trạng này.
AnVu:
Việt Nam nên có thêm biện pháp gì để hỗ trợ các doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển thông qua chính sách giảm nghĩa vụ thuế?
Ông Lê Đăng Doanh:
Việt Nam nên khấu trừ các chi phí đầu tư vào khoa học-công nghệ, nghiên cứu triển khai, vận dụng công nghệ mới, mua bằng sáng chế, phát minh để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới sản phẩm, nâng cao trình độ khoa học-công nghệ.
Thanh Huyen:
Theo đánh giá của ông/bà, sự tham gia của người nộp thuế trong việc góp ý kiến trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế ở Việt Nam có nhiều không, vì sao?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Theo quy định hiện hành, người nộp thuế có quyền trực tiếp hoặc thông qua các hội nghề nghiệp hoặc các kênh khác để đóng góp tham gia xây dựng các văn bản, chính sách về thuế cũng như phản ánh các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách thuế.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy còn không ít người nộp thuế chưa quan tâm đúng mức, còn thờ ơ với công tác xây dựng văn bản pháp luật thuế. Chính điều đó làm cho người nộp thuế tự từ bỏ quyền lợi của mình. Chỉ đến khi gặp vướng mắc trong quá trình thực thi thì mới phản ứng.
Để các luật thuế đi vào cuộc sống, bên cạnh ý kiến của ban soạn thảo thì ý kiến của người nộp thuế có vai trò quan trọng do họ là đối tượng điều chỉnh của luật. Vì vậy, người nộp thuế phải có trách nhiệm, phải có ý thức hơn để phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi cũng như trong quá trình xây dựng các chính sách thuế để qua đó góp phần nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật về thuế.
Thu Kim:
Gần đây, ngành thuế thường xuyên công bố các số liệu hoành tráng về các đợt thanh kiểm tra thuế, theo đó có hàng trăm doanh nghiệp vi phạm mỗi năm với số tiền thất thoát lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Nhưng khi báo chí, giới truyền thông muốn tiếp cận danh sách và số liệu chi tiết tại các doanh nghiệp thì luôn bị từ chối. Theo bà khi ngành thuế đã có các quyết định xử phạt chính thức thì có nên công bố rộng rãi thông tin hay không?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Trước hết phải khẳng định số liệu thanh tra, kiểm tra, truy thu tiền thuế gian lận là chính xác, và cơ quan thuế đều có danh tính các đơn vị và các hành vi vi phạm cụ thể.
Tuy nhiên, việc công khai, công bố thông tin cụ thể thì còn tuỳ vào mức độ, hành vi vi phạm và phải tính đến sự tác động của việc công khai thông tin vi phạm.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế thì người nộp thuế được quyền đảm bảo bí mật thông tin. Nhưng bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng được quyền công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp chây ỳ, cố tình vi phạm pháp luật về thuế. Các hành vi vi phạm, tuỳ theo mức độ nặng nhẹ, cơ quan thuế thực hiện xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo quy định của pháp luật. Công tác thanh kiểm tra thuế, ngoài mục đích nhằm phát hiện, truy thu thuế còn có tác dụng chấn chỉnh, ngăn ngừa các vi phạm giúp doanh nghiệp khắc phục hậu quả, tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh.
Do đó, việc công khai thông tin vi phạm cũng cần được cân nhắc đối với từng trường hợp cụ thể chứ không nhất thiết phải công khai tất cả các trường hợp vi phạm.
Nguyễn Bình:
Mặc dù đã có nhiều cải cách nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn cho biết phải nộp rất nhiều giấy tờ mà cơ quan thuế hoặc hải quan đã có. Vấn đề này liệu có cần thiết phải đặt ra trong đợt sửa đổi luật thuế sắp tới tại quốc hội?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Đúng là trong thời gian gần đây, ngành thuế đã có nhiều cải cách, tuy nhiên, các thủ tục giấy tờ liên quan đến thời gian, tính toán, kê khai nộp thuế của doanh nghiệp tại Việt Nam còn phức tạp. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới thì số giờ nộp thuế của doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm nộp thuế và bảo hiểm xã hội) là 872 giờ, xếp thứ 185/189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Do vậy, Chính phủ đã có nghị quyết 19/CP yêu cầu Bộ Tài chính phải cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó có cắt giảm giờ nộp thuế từ 872 giờ xuống còn 171 giờ (mức trung bình của các nước ASEAN 6) vào năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Hải quan triển khai quyết liệt nội dung này. Triển khai ý kiến của chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 119/2014, sửa đổi 7 thông tư, cắt giảm nhiều tờ khai, thủ tục về thuế.
Chính phủ cũng ban hành Nghị định 91/2014, cắt giảm tiếp các thủ tục về thuế, ví dụ như: bỏ tờ khai tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý, doanh nghiệp có doanh thu không quá 50 tỷ đồng/năm được kê khai thuế VAT theo quy thay cho tháng; bỏ việc viết hoá đơn VAT đối với hàng xuất khẩu…
Bên cạnh đó, Tổng cục thuế, Tổng cục hải quan đã có công văn chỉ đạo gửi các cơ quan thuế, hải quan không được phép thu thêm loại giấy tờ nào được quy định tại các văn bản.
Ngoài các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, thì lần này Chính phủ sẽ trình ra Quốc hội sửa đổi các luật thuế, trong đó có liên quan đến 15 nhóm giải pháp nhằm giảm thiểu các thủ tục, giấy tờ liên quan đến nộp thuế, ưu đãi thuế. Những nỗ lực này đã và sẽ góp phần giảm thiểu các giấy tờ, thời gian của các doanh nghiệp khi làm các thủ tục kê khai về thuế.
Thanh Hà:
Khi sửa đổi luật thuế, giảm thuế quan trọng hay minh bạch thuế quan trọng hơn?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Trên phương diện người nộp thuế, cả hai yếu tố đều quan trọng. Việc giảm thuế sẽ góp phần nâng cao tăng trưởng cho doanh nghiệp, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, kích thích nhà đầu tư tăng cường, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi xây dựng luật, việc giảm thuế phải cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, chính sách thu hút đầu tư, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước trong từng giai đoạn... Do vậy, lộ trình giảm thuế thường phải được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
Việc minh bạch thuế sẽ giúp người nộp thuế và cơ quan thuế thực thi các chính sách thuế rõ ràng hơn, giảm thiểu sai phạm hoặc cách hiểu chưa đúng từ doanh nghiệp, tránh những điều chỉnh thuế sau này khi có thanh tra thuế. Thông qua đó giúp cả cơ quan thuế và người nộp thuế giảm thiểu thời gian tính toán, kê khai, nộp thuế đúng và đủ.
Kết quả thanh tra đã nêu lên nhiều vấn đề bất cập liên quan đến vấn đề này cũng như từng doanh nghiệp cụ thể, trong đó đặc biệt đáng chú ý là tình trạng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên tục khai lỗ lớn trong thời gian qua.
Thanh tra Chính phủ phát hiện là trong bối cảnh khai lỗ liên tục và lớn, một số doanh nghiệp vẫn có “tốc độ tăng doanh thu hàng năm vẫn cao, hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục được mở rộng, nhiều doanh nghiệp đã có số lỗ vượt quá số vốn chủ sở hữu”.
Để tạo một diễn đàn với nhiều góp ý, khuyến nghị chính sách liên quan đến hiện tượng chuyển giá, lách thuế, trốn thuế của doanh nghiệp FDI, cũng như sự công bằng trong chính sách thuế nói chung, VnEconomy phối hợp với ActionAid Vietnam tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Doanh nghiệp FDI, minh bạch thuế và túi tiền quốc gia”, diễn ra từ 14h - 16h chiều nay (thứ Tư, ngày 29/10/2014), với sự tham gia của các diễn giả:
- Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế
- TS. Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế
- TS. Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính)
- Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế - Deloitte Việt Nam
Sau đây là nội dung cuộc giao lưu trực tuyến:
M.H:
Tôi làm tại một doanh nghiệp FDI. Ngành thuế hiện đang tiến hành nhiều đợt thanh kiểm tra đối với các doanh nghiệp FDI. Làm thế nào để có thể duy trì kỷ luật tài chính, thuế, trong khi không khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy áp lực và mất niềm tin vào môi trường đầu tư của Việt Nam?
Ông Lê Đăng Doanh:
Theo tôi, việc thanh tra kiểm tra nên được quy định rõ ràng và tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, công khai minh bạch sẽ tránh được những cảm nhận không thuận lợi của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp thường xuyên phản ánh bị thanh tra quá nhiều lần, thanh tra kéo quá dài, và rất phức tạp, chồng chéo, rất mong các cơ quan có liên quan phối hợp để giảm bớt sự phiền hà đối với doanh nghiệp.
Andy Nguyen:
Ông/bà thấy thế nào về đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp FDI hiện nay?
Ông Lê Đăng Doanh:
Cộng đồng doanh nghiệp FDI đã có đóng góp rất đáng trân trọng trong phát triển những ngành công nghiệp mới vận dụng công nghệ tiên tiến, đóng góp quan trọng cho xuất khẩu. Tuy vậy, đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu ngân sách còn chưa tương xứng.
Andy Nguyen:
Báo đăng rằng Bộ Tài chính trong 9 tháng đầu năm nay đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.990 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá, truy thu, phạt và truy hoàn là 1.559,8 tỷ đồng, giảm lỗ 4.720 tỷ đồng; giảm khấu trừ 99,9 tỷ đồng. Các chuyên gia bình luận gì về các con số này?
Ông Lê Đăng Doanh:
TomTom:
Theo các chuyên gia, thì đang có những lỗ hổng pháp luật nào về thuế của Việt Nam liên quan đến doanh nghiệp FDI?
Ông Lê Đăng Doanh:
Gần đây chúng ta đã phát hiện doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mở rộng kinh doanh, đầu tư tăng thêm, nhưng không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhiều công trình đã cho thấy doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có hành vi chuyển giá.
Đầu năm 2014, Bộ Tài chính có công bố một báo cáo của Tổng cục Thuế thanh tra 870 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và đã phát hiện 720 doanh nghiệp có vi phạm, trong đó có tỉnh như Quảng Ngãi có 27/27 doanh nghiệp đã có vi phạm, An Giang có 7/7 doanh nghiệp vi phạm. Tức là tỷ lệ vi phạm 100%.
Tỷ lệ vi phạm ở Tp.HCM là 85%, ở Hà Nội là 90%. Tại Hà Nội, có 326/332 doanh nghiệp vi phạm. Cơ quan chức năng đã truy thu được 1.500 tỷ đồng tiền thuế.
Thủ đoạn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trốn thuế chủ yếu là chuyển giá, tức là nâng giá đầu vào mà các công ty mẹ bán cho các công ty con ở Việt Nam lên mức giá rất cao và mua lại các sản phẩm của công ty con sản xuất ở Việt Nam với một mức giá rất thấp để cho công ty con ở Việt Nam không có lãi và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Công ty mẹ có trụ sở ở một nền kinh tế có tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn hẳn. Chẳng hạn, ở Hồng Kông, thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ là 15%, và công ty được lợi bằng cách chuyển toàn bộ lợi nhuận vào công ty mẹ và hưởng mức thuế thấp.
Một thủ đoạn khác được phát hiện là công ty con phải chịu chi phí quảng cáo không chỉ của công ty con quảng cáo ở Việt Nam, mà còn chịu cả phần chi phí quảng cáo của công ty mẹ. Có công ty như Adidas phải chịu chi phí quản lý của quá nhiều cấp. Adidas Việt Nam chịu phí quản lý của Adidas châu Á-Thái Bình Dương tại Singapore và chi phí của Adidas ở Đức.
Qua những ví dụ này, chúng ta thấy, cơ quan thuế của Việt Nam đã chậm phát hiện các thủ đoạn chuyển giá và trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, và các luật về thuế và phí của Việt Nam cần được bổ sung và hoàn chỉnh để có thể xử lý được những thủ đoạn mà chúng ta đã phát hiện.
Cũng phải nói, việc chuyển giá này là phổ biến và các nước đều gặp, không phải chỉ xuất hiện ở các hãng bán lẻ hay sản xuất bia, nước ngọt, mà xuất hiện cả ở các ngân hàng và các công ty tài chính, và việc phát hiện và xử lý là hoàn toàn không dễ dàng vì các công ty đó có các chuyên gia về tài chính - kế toán rất thành thạo.
Họ nghiên cứu, so sánh thuế từng nước, luật kế toán từng nước để tìm và tận dụng mọi lỗ hổng.
Bởi vậy, tìm ra việc trốn thuế, chuyển giá của các công ty nước ngoài là một cuộc đấu trí của hai bên thu thuế và nộp thuế. Bên nào trí tuệ., “võ nghệ” cao cường hơn thì bên đó sẽ thắng.
Quyet:
Việc chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp FDI, theo ông/bà có nguyên nhân từ đội ngũ thực thi? Nếu có thì có phải là nguyên nhân quan trọng hay không?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Chào bạn,
Cơ quan thuế là cơ quan thừa hành, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Tài chính để quản lý thu ngân sách nhà nước. Do vậy, không thể nói rằng cơ quan thuế (đội ngũ thực thi) là nguyên nhân góp phần vào tình trạng chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp.
Việc chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp, nếu có, hoàn toàn xuất phát từ bản thân doanh nghiệp. Hiện nay, cơ quan thuế đang tích cực xây dựng, đào tạo đội ngũ có chuyên môn sâu trong lĩnh vực chuyển giá để có thể thực hiện các cuộc thanh tra chuyển giá hiệu quả, thu hồi các khoản thuế mà có thể doanh nghiệp đã thu lợi từ các nghiệp vụ chuyển giá trước đây.
Hiệu quả của việc thanh tra chuyển giá đã được thể hiện qua kết quả rất khả quan trong các năm qua. Các doanh nghiệp FDI cũng đã nhận thấy vấn đề này và đang tự giác điều chỉnh kết quả hoạt động kinh doanh về mức giá thị trường, tránh bị phạt thuế nếu bị thanh tra chuyển giá sau này.
Nhiều doanh nghiệp những năm trước lỗ năm nay đã có lãi. Số lượng doanh nghiệp FDI kê khai thua lỗ từ đầu năm đến nay đã giảm ro rệt, nhiều doanh nghiệp đã tự giác hơn trong kê khai, điều chỉnh chi phí.
Quang Thọ:
Nếu phát hiện doanh nghiệp lỗ nhiều năm nhưng vẫn đầu tư mở rộng liên tục trong thời gian dài, theo ông/bà, cơ quan quản lý nên ứng xử thế nào với trường hợp này.
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Chào bạn,
Luật sửa đổi Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ giữa 2013 đã đưa ra cơ chế giúp cơ quan thuế xây dựng tiêu chí, cơ chế quản lý doanh nghiệp theo cấp độ rủi ro.
Do vậy, trong trường hợp này, cơ quan thuế thông thường sẽ soát xét, phân tích số liệu báo cáo tài chính qua các năm của doanh nghiệp, từ đó sẽ xác định được các rủi ro về tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên nhiều sắc thuế khác nhau bao gồm cả rủi ro về chuyển giá.
Trên cơ sở đó, cơ quan thuế sẽ xác định phạm vi và thời gian cần thiết để thanh tra doanh nghiệp. Nếu phát hiện các sai phạm về doanh thu, chi phí, hiện tượng chuyển giá..., thì sẽ tiến hành truy thu thuế và phạt theo quy định.
Nhat Linh:
Có ý kiến cho rằng, cơ quan thuế cập nhật chính sách thuế mới cho doanh nghiệp còn chậm, người kê khai thuế chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và kịp thời, ông/bà đánh giá thế nào về ý kiến này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Khi các văn bản quy phạm pháp luật về thuế được ban hành (văn bản hướng dẫn dưới luật), phòng tuyên truyền hỗ trợ ở các cục thuế địa phương sẽ có hướng dẫn, thông báo để tuyên truyền cho người nộp thuế. Tổng cục Thuế cũng thường xuyên ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết hơn để giúp người nộp thuế hiểu rõ hơn các chính sách thuế.
Gần như tất cả các cục thuế địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn, đều có website để cập nhật thường xuyên các chính sách mới. Do vậy, người nộp thuế nếu thực sự quan tâm thì có thể truy cập và kiểm tra, theo dõi thường xuyên các thay đổi về chính sách.
Ngoài cơ quan thuế, rất nhiều công ty tư vấn trên thị trường cũng thường xuyên tổ chức hội thảo ở các quy mô khác nhau, song hành cùng cơ quan thuế để cập nhật, giải đáp vướng mắc cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, người nộp thuế đang có rất nhiều cơ hội để tự cập nhật và thông qua các công ty tư vấn để nắm được và áp dụng các chính sách thuế được đúng đắn kịp thời.
Trần Vinh:
Có ý kiến cho rằng nhiều lãnh đạo/ người dân chưa có kiến thức về công bằng thuế, ông/bà đánh giá gì về quan điểm này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Những nhà làm luật, khi tiến hành xây dựng, sửa đổi luật, chính sách kinh tế, thương mại, thuế, hải quan v.v. đều phải cân nhắc các khía cạnh liên quan tới công bằng xã hội, các tầng lớp doanh nghiệp, dân cư.
Quá trình làm luật, văn bản dưới luật cũng được thẩm định, lấy ý kiến từ các bộ, ban ngành đại diện các lĩnh vực có liên quan để đảm bảo mức độ công bằng phù hợp nhất cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách ban hành trong từng thời kỳ có thể chưa hoàn toàn phù hợp, và sẽ được điều chỉnh thích hợp cho những lần sau.
Quan niệm công bằng hay chưa công bằng, theo đó, khó xác định, cần nhìn nhận vào số đông những người áp dụng và ảnh hưởng của các chính sách này.
Tham Lam:
Liệu có phải là Việt Nam đang bất lực với các hành vi chuyển giá, lách thuế và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Trước hết mình cũng phải đánh giá vai trò của doanh nghiệp FDI trong thời gian qua đối với nền kinh tế, ví dụ họ đã ứng dụng công nghệ, quản lý sản xuất kinh doanh,..chính doanh nghiệp FDI đã góp phần làm cho hàng hoá phong phú, chất lượng hơn và đó cũng là điều kiện để Việt Nam học tập trong quản lý và sử dụng lao động.
Trên cơ sở đóng góp về vốn, lao động, tay nghề cho lao động Việt Nam, ứng dụng khoa học công nghệ...từ đó đóng góp vào ngân sách nhà nước thì số thu từ doanh nghiệp FDI khá ổn định. Từ 2008 thu từ doanh nghiệp FDI gần 44 nghìn tỷ, đến 2013 đã 111 nghìn tỷ, trong dự toán 2014 số thu gần 112 nghìn tỷ. Tỷ trọng bình quân khoảng 14%, còn nếu thu nội địa cũng trên 16%.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề quản lý, trốn thuế được cơ quan quản lý và dư luận quan tâm, vì trong quá trình quản lý, thanh tra cũng thấy rõ việc thất thu này, cụ thể là hiện tượng chuyển giá.
Thực tế chúng ta thấy rõ, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn có lãi thì việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh là tất yếu, chẳng hạn như SamSung, Toyota... có rất nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ triền miên nhưng vẫn tiếp tục rót vốn đầu tư, kinh doanh.
Câu hỏi đặt ra, tại sao họ lỗ mà vẫn đầu tư, do đó dư luận và cơ quan quản lý đặt ra nghi vấn là đương nhiên.
Tuy nhiên, khi nói về chuyển giá, có thể chúng ta biết, nhưng để kiểm tra, có chứng cứ, thu được thuế là điều không dễ. Vì chuyển giá là một hình thức trốn thuế, phần lẽ ra phải nộp thuế ở Việt Nam thì họ chuyển về công ty mẹ ở nước ngoài, từ đó khiến Việt Nam bị thiệt thòi.
Chuyển giá có hai khía cạnh: thông qua nâng giá thiết bị, công nghệ, vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài vào Việt Nam...từ đó khiến chi phí của công ty ở Việt Nam cao lên, dẫn tới thua lỗ. Đây là hình thức phổ biến.
Ví dụ, họ nhập vật tư, thiết bị từ doanh nghiệp mẹ chuyển vào, khai tăng lên khiến doanh nghiệp trong nước lỗ, trong khi công ty mẹ vẫn lãi.
Thứ hai là chiều từ Việt Nam đi, tức là lẽ ra phải xuất hàng hoá bằng giá thị trường thì họ lại khai thấp đi để bán ở nước ngoài từ đó khiến công ty ở Việt Nam bị lỗ.
Hoặc họ có thể dùng các công ty tư vấn của công ty mẹ để định giá tư vấn cao lên, mục đích cuối cùng là tăng chi phí, giảm doanh thu để từ đó tránh được thuế.
Muốn chống được chuyển giá thì phải có biện pháp để tìm ra bằng chứng thì mới có thể truy thu được. Nhưng câu chuyện chống chuyển giá không chỉ là của Việt Nam mà là của khu vực và quốc tế vì muốn kiểm tra được vấn đề đó thì phải biết giá đầu vào cùng một mặt hàng đó khi chuyển vào Việt Nam là bao nhiêu, còn chuyển vào các nước khác là bao nhiêu?
Khó ở chỗ là không có cơ quan nào cung cấp cho mình giá đó, vì thông thường cơ quan thuế các nước cũng phải bảo vệ doanh nghiệp của họ.
Do đó, vấn đề chuyển giá là vấn đề của quốc tế. Trong khi đây là vấn đề khá mới ở Việt Nam nên kinh nghiệm và trình độ để đối phó với hành vi này là còn hạn chế. Cơ quan thuế Việt Nam vẫn đang nỗ lực, tuy nhiên hiệu quả thì chưa được cao.
Một vài con số cho thấy nỗ lực chống chuyển giá của cơ quan thuế trong mấy năm qua. Ví dụ, năm 2010 cơ quan thuế đã thanh tra 575 doanh nghiệp lỗ từ 2005 - 2009 thì kết quả giảm lỗ được 4.006 tỷ đồng, truy thu được 212 tỷ.
2011 kiểm tra 856 doanh nghiệp lỗ, giảm lỗ 4.400 tỷ, truy thu và phạt 1.650 tỷ đồng.
2013 kiểm tra 1.233 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá thì truy thu, giảm lỗ 1.600 tỷ đồng.
Tính luỹ kế từ 2010 đến 2013 thì đã thanh tra tại 5.404 đơn vị, truy thu được 9.628 tỷ đồng.
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Quy định về xác định giá thị trường trong giao dịch với các bên liên kết mới thực sự được áp dụng theo đúng ý nghĩa, trong vòng 5-6 năm trở lại đây.
So với các nước đã có hệ thống quản lý và thanh tra, giám sát hoạt động chuyển giá phát triền hàng chục năm; những bước tiến và thành quả đạt được của Bộ tài chính, Tổng cục thuế trong những năm qua không phải là nhỏ.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính cũng tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cũng như nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra chuyển giá để đẩy mạnh hoạt động thanh tra chuyển giá, góp phần lành mạnh hóa hoạt động chuyển giá ở các doanh nghiệp (nếu có).
Thu Kim:
Thưa bà Cúc, hồi bà còn công tác ở Tổng cục thuế, vấn đề chuyển giá đã được quan tâm như thế nào? Vì sao chưa có vụ việc nào được kết luận và công bố chính thức mà chỉ dừng ở các “nghi án”, để rồi sau đó ngành thuế tự “xử lý nội bộ” với doanh nghiệp?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Thực tế, khi tôi còn làm ở Tổng cục Thuế thì vấn đề chuyển giá cũng đã được quan tâm, Bộ Tài chính khi đó đã có Thông tư 117/2005 hướng dẫn các doanh nghiệp xác định giá thị trường giữa các bên có quan hệ liên kết và đến tháng 2/2010 BTC đã ban hành thông tư 66 thay thế thông tư 117.
Qua thực tế thanh tra, giám sát đã truy thu được gần 10.000 tỷ tiền thuế từ doanh nghiệp FDI.
Một số vụ việc và số liệu chuyển giá đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
H.B:
Có chuyên gia nhận xét tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, chuyển giá... hiện giờ vẫn diễn biến phức tạp, ông/bà có đồng tình?
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên tôi đã trình bày, có thể nói, tình trạng chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI là phổ biến và thiệt hại đối với nguồn thu ngân sách về nghiêm trọng.
Rất mong cơ quan thuế sẽ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thuế các nước có công ty mẹ để có thể thu thuế một cách công bằng, đúng pháp luật.
Hiện tượng này cũng xuất hiện ở nhiều nước và ngay cả những nước có nền kinh tế thị trường rất phát triển, bộ máy giám sát có tính chuyên nghiệp cao cũng vẫn phát hiện ra được những vụ trốn thuế, lậu thuế lên tới hàng tỷ USD, và mức phạt là rất cao. Vì vậy, cần có một chuyên đề về đối phó với chuyển giá và trốn thuế để nâng cao trình độ, kỹ năng đối phó với tình trạng này.
DuyNguyen:
Ông/bà thấy hiện tượng chuyển giá, lách thuế, trốn thuế của doanh nghiệp FDI ảnh hưởng thế nào tới ngân sách của Việt Nam?
Ông Lê Đăng Doanh:
Nếu xét tỷ lệ của doanh nghiệp FDI hiện chiếm khoảng 19-20% GDP, đóng góp 68% vào tổng kim ngạch xuất khẩu, thì đóng góp của các doanh nghiệp này vào ngân sách còn rất khiêm tốn.
Như vậy, các doanh nghiệp FDI không những chỉ được ưu đãi rất cao về miễn giảm thuế thu nhập trong những năm đầu kinh doanh, miễn giảm thuế đất, mà thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không thu được đầy đủ.
Bên cạnh thiệt hại đối với ngân sách, tình trạng này cũng tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong nước, vì các doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ hơn, nguồn vốn ít hơn, nhưng lại không được ưu đãi như các doanh nghiệp FDI về mặt bằng, tiền thuê đất…
Trong tình trạng ngân sách rất căng thẳng hiện nay, việc thu đúng, thu đủ là hết sức cần thiết, cho nên cần huy động đúng luật đối với các doanh nghiệp FDI và tạo ra một mặt bằng cạnh tranh bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp trong nước.
T.Cuong:
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần phải làm gì để hạn chế chuyển giá - trốn thuế?
Ông Vũ Như Thăng:
Chống chuyển giá là công tác vô cùng phức tạp, để hạn chế hiện tượng này, trong thời gian qua Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 1250/QĐ-BTC ngày 21/5/2012 về việc phê duyệt chương trình hành động kiểm soát hoạt động chuyển giá giai đoạn 2012-2015.
Dựa trên chương trình hành động đó, cơ quan thuế đã triển khai mạnh thanh tra, kiểm tra trong năm 2012-2013 và đã mang lại nhiều kết quả và tác động không nhỏ đến tính tuân thủ của nhiều doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy định pháp luật về thuế, tác động tốt tới môi trường đầu tư, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư chân chính thực hiện đầu tư vào Việt Nam.
Trong giai đoạn tới, để hạn chế hiện tượng này, tôi nghĩ cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý đối với hoạt động chuyển giá; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu làm cơ sở cho công tác phân tích rủi ro và thanh tra hoạt động chuyển giá; mở rộng phạm vi thanh tra và tích cực đẩy mạnh công tác thanh tra, công tác truyền thông; và trên hết là cần có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành liên quan.
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên đã nói, đầu năm 2014, Tổng cục Thuế đã có báo cáo sơ bộ về 870 doanh nghiệp FDI. Báo cáo về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cũng có một chương nói về tình trạng chuyển giá và trốn thuế do GS. E. Malesky chủ biên.
Như vậy, Việt Nam cần có nghiên cứu tổng kết các biểu hiện, các phương pháp, các hình thức chuyển giá và trốn thuê thu nhập doanh nghiệp, tổ chức hợp tác với các cơ quan có trách nhiệm của các nước có trụ sở của công ty mẹ để có biện pháp phòng ngừa, bổ sung sửa đổi những quy định pháp luật bảo đảm thu đúng, thu đủ đối với doanh nghiệp FDI.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận được với những số liệu mà công ty mẹ báo cáo với nước chủ nhà, có phân tích, đối chiếu với những số liệu của chi nhánh hoạt động ở Việt Nam để phát hiện ra những lỗ hổng như nâng giá đầu vào, dìm giá sản phẩm đầu ra của chi nhánh ở Việt Nam, phân bổ những chi phí không hợp lý về quảng cáo và quản trị để tạo ra tình trạng thua lỗ nhiều năm.
T.Cuong:
Hành lang pháp lý hiện tại đủ sức nặng để quản lý điều này chưa?
Ông Vũ Như Thăng:
Chính sách quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa qua đã có những bước thay đổi tích cực cả về mặt pháp lý và thực tế ứng dụng.
Về cơ bản, các quy định về xác định giá thị trường đối với sản phẩm trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết được dựa trên hướng dẫn của OECD, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Việc quy định các bên liên kết đã rõ ràng, cụ thể hơn các quy định trước đây. Đặc biệt, nguồn thông tin, dữ liệu được phép sử dụng để phân tích, so sánh về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xác định giá thị trường của doanh nghiệp và cơ quan thuế, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tăng cường thu cho ngân sách nhà nước, góp phần bảo vệ lợi ích và quyền đánh thuế của quốc gia và đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo tôi để triển khai có hiệu quả thì việc tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, các quy định về thời hạn thanh tra; quy định về vốn mỏng, quy định về thông tin, chính sách tăng cường nhân sự có trình độ cao trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các doanh nghiệp có hiện tượng chuyển giá là cần thiết.
Ông Lê Đăng Doanh:
Như trên đã nói, đầu năm 2014, Tổng cục Thuế đã có báo cáo sơ bộ về 870 doanh nghiệp FDI. Báo cáo về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cũng có một chương nói về tình trạng chuyển giá và trốn thuế do GS. E. Malesky chủ biên.
Như vậy, Việt Nam cần có nghiên cứu tổng kết các biểu hiện, các phương pháp, các hình thức chuyển giá và trốn thuê thu nhập doanh nghiệp, tổ chức hợp tác với các cơ quan có trách nhiệm của các nước có trụ sở của công ty mẹ để có biện pháp phòng ngừa, bổ sung sửa đổi những quy định pháp luật bảo đảm thu đúng, thu đủ đối với doanh nghiệp FDI.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận được với những số liệu mà công ty mẹ báo cáo với nước chủ nhà, có phân tích, đối chiếu với những số liệu của chi nhánh hoạt động ở Việt Nam để phát hiện ra những lỗ hổng như nâng giá đầu vào, dìm giá sản phẩm đầu ra của chi nhánh ở Việt Nam, phân bổ những chi phí không hợp lý về quảng cáo và quản trị để tạo ra tình trạng thua lỗ nhiều năm.
Cong Thang:
Trong cuộc khảo sát vừa được thực hiện trên VnEconomy, với câu hỏi “Bạn có nghĩ rằng chính sách thuế ở Việt Nam đã công bằng với các đối tượng nộp thuế?”, trong số gần 6.900 ý kiến phản hồi, có đến gần 6.300 độc giả cho rằng “chưa công bằng”, ông/bà đánh thế nào về kết quả này?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn cao. Do vậy, có thể có nhiều ý kiến cho rằng là chưa công bằng. Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính, cùng các bộ ban ngành có liên quan, vẫn luôn nỗ lực cải thiện hệ thống chính sách thuế, hải quan; đưa ra các chính sách ưu đãi công bằng, cũng như lộ trình để giảm thuế.
Trong 5 năm tới, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ đạt được mức trung bình so sánh được với các nước trong khu vực, tạo điều kiện công bằng hơn cho các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Thanh Huyen:
Theo đánh giá của ông/bà việc sự tham gia của người nộp thuế trong việc góp ý kiến trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế ở Việt Nam có nhiều không, vì sao?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Trong quá trình soạn thảo luật và các văn bản dưới luật, ngoài các nhà làm luật trực tiếp tham gia, các bản dự thảo cũng được công bố trên các website để các tổ chức, cá nhân quan tâm vào đọc và tham gia ý kiến.
Các chuyên gia, các ban chuyên trách ở các Bộ, ngành có liên quan, cùng với các hội chuyên môn, các công ty tư vấn, đại diện cho người nộp thuế trên các phương diện khác nhau, cũng đưa ra ý kiến chuyên môn để đóng góp trong quá trình soạn thảo.
Theo đó, các chính sách kinh tế, thuế, hải quan cũng ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với yêu cầu quản lý và áp dụng thực tiễn từ phía người nộp thuế.
Nguyễn Thế Phương:
Quốc hội kỳ này cũng nghe trình bày dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi. Vậy chính sách thu hút FDI, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế có cần được xem xét lại? Và nếu có thì cần phản ánh trong luật như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Theo quy định của các luật thuế hiện hành thì ưu đãi thuế không phân biệt doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nước cũng như giữa các thành phần kinh tế, mà việc ưu đãi thuế áp dụng theo địa bàn, lĩnh vực và quy mô doanh nghiệp.
Chính sách ưu đãi thuế thay đổi nhằm thu hút đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực cần kêu gọi đầu tư để đảm bảo nền kinh tế phát triển đồng đều, bền vững. Hiện nay chính sách thuế đang hướng tới ưu đãi nhằm phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, biển đảo, xã hội hoá, ứng dụng công nghệ cao.
Quốc hội lần này bàn đến sửa đổi các luật thuế, trong đó có nội dung ưu đãi thuế nhưng không có quy định riêng cho doanh nghiệp FDI.
Minh Thúy:
Về việc sửa đổi một số điều tại các luật thuế đang được quốc hội lấy ý kiến, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục đề nghị bỏ quy định khống chế chi phí quảng cáo, để tạo sự công bằng trong cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, ý kiến của ông/bà?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Về vấn đề chi phí quảng cáo, tiếp thị, hoa hồng…trong những năm gần đây đã có nhiều sửa đổi cơ bản.
Trước năm 2013 trở về trước, thì doanh nghiệp mới thành lập trong 3 năm đầu có tỷ lệ khống chế là 15%. Từ năm thứ 4 trở đi chỉ còn 10%. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi áp dụng từ 1/1/2014 đã nâng tỷ lệ khống chế lên 15% áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.
Dự thảo Luật sửa đổi trình Quốc hội lần này thì chỉ khống chế 15% đối với chi phí quảng cáo, còn các chi phí khác thì theo thực chi liên quan đến sản xuất, kinh doanh chứ không bị khống chế.
Theo quan điểm của cá nhân tôi, hướng xử lý này là tương đối phù hợp với các điều kiện của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Theo số liệu khảo sát, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì tỷ lệ chi quảng cáo, môi giới đều ở mức thấp hơn 15%.
Trong điều kiện hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chưa thực sự bình đẳng, vì một số doanh nghiệp có sự hỗ trợ chi phí quảng cáo từ công ty mẹ, trong khi một số doanh nghiệp không được hỗ trợ thì không đủ nguồn lực để chi cho quảng cáo, tiếp thị…Nếu không khống chế thì không đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nên việc còn khống chế chi phí quảng cáo trong giai đoạn hiện nay là phù hợp.
Ánh Hồng:
Việc áp dụng chính sách thuế của cán bộ thuế ở các chi cục không nhất quán với quy định, để giải quyết tình trạng này, theo ông bà cần có biện pháp gì?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Đúng là trong thực tế, do một số văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, minh bạch nên còn có hiện tượng cùng một nội dung nhưng cán bộ thuế và doanh nghiệp hiểu khác nhau, thậm chí cán bộ thuế giữa các địa phương, giữa các chi cục cũng còn hiểu khác nhau, gây khó khăn trong thực thi.
Vấn đề này cũng đã được phản ánh lên lãnh đạo ngành thuế, Bộ Tài chính. Để chấm dứt tình trạng này thì các văn bản pháp quy hướng dẫn phải thống nhất, rõ ràng, từ luật, nghị định, đến các thông tư, các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Vừa qua, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cũng đã có các công văn hướng dẫn cách xử lý thống nhất trên toàn quốc đối với một số nội dung chưa rõ ràng, còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
T.C:
Nếu phát hiện doanh nghiệp lỗ nhiều năm nhưng vẫn đầu tư mở rộng liên tục trong thời gian dài, theo ông/bà, cơ quan quản lý nên ứng xử thế nào với trường hợp này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Đã phát hiện rất nhiều công ty thường xuyên báo lỗ trong 10-20 năm, nhưng vẫn mở rộng đầu tư kinh doanh, tăng công suất thêm tới 500%, thì cơ quan hữu quan của Việt Nam cần có biện pháp thanh tra, giám sát và liên hệ với các cơ quan liên quan ở các nước để tìm kiếm sự trợ giúp và phát hiện ra những điều không bình thường trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
Bình thường, không doanh nghiệp nào có thể tiếp tục đầu tư trong khi vẫn báo lỗ quá 3 năm.
Hiện tượng này xuất hiện ở nhiều nước và ta không nên quá “hốt hoảng” hay “bi kịch hóa” hiện tượng này. Không nên có những phản ứng có tính chất kỳ thị hay lên án dựa trên cảm tính. Trong cái sai của họ cũng có cái yếu kém của mình. Vì vậy, phát hiện phải dẫn đến hoàn chỉnh khung pháp luật và nâng cao tính chuyên nghiệp của các cơ quan và chuyên viên của Việt Nam.
Hai Ha:
Đóng thuế vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ, có nước việc đóng thuế còn thuộc phạm trù đạo đức và danh dự, vậy theo ông Việt Nam nên làm gì để tiến tới điều này?
Ông Vũ Như Thăng:
Những cải cách quan trọng về chính sách thuế từ đầu những năm 1990 đến nay đã thiết lập một hệ thống thuế với đầy đủ các sắc thuế của một hệ thống thuế hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và phù hợp với xu hướng chung về cải cách thuế trên thế giới, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục thực hiện cải cách chính sách thuế nhằm cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước với diện bao quát ngày càng rộng, góp phần tăng tiềm lực tài chính để đảm bảo các nhiệm vụ chi của Nhà nước.
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam đã đề ra định hướng tổng quát là hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế; đồng thời, đảm bảo mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả.
Bên cạnh đó, công tác quản lý thuế, phí và lệ phí sẽ được thực hiện theo thống nhất, minh bạch dựa trên ba nền tảng cơ bản là thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hoá cao.
Thực hiện định hướng này, trong những năm tới, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam sẽ tiếp tục được cải cách cả về chính sách thuế và đổi mới về quản lý thuế theo xu hướng và thông lệ chung trên thế giới, tăng cường tính kỷ luật tài khóa trong quản lý thu và hành thu.
Hai Ha:
Có ý kiến cho rằng nhiều lãnh đạo/người dân chưa có kiến thức về công bằng thuế, ông/bà đánh giá gì về quan điểm này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Việc công khai minh bạch các thông tin về thuế, giải thích và làm rõ những mặt được và chưa được của tình trạng thu thuế, lạm thu, thất thu, thu chi ngoài pháp luật cần được phổ biến rộng rãi trong xã hội, không có bất kỳ vùng cấm nào.
Một nền báo chí có trách nhiệm, tự do, tự chịu trách nhiệm sẽ đóng góp rất quan trọng để nâng cao ý thức của toàn xã hội đối với sự công bằng trong thu thuế và sử dụng tiền thuế của dân.
TuQuyen:
Một cuộc khảo sát của Action Aid cho thấy, chính sách thuế cần có tính lâu dài, hạn chế thay đổi, có tính thống nhất giữa các chính sách và thời gian áp dụng để người nộp thuế dễ áp dụng, văn bản hướng dẫn phải cụ thể, đầy đủ. Theo ông/bà, làm thế nào để giải quyết được tình trạng này?
Cũng từ khảo sát của Action Aid cho thấy: khi nhận xét về tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện của các văn bản pháp luật thuế hiện hành, có 62,71% số cán bộ và 88,89% số doanh nghiệp đánh giá ở mức trung bình và thấp. Đồng thời, 27% cán bộ thuế và hơn 11% số doanh nghiệp có ý kiến đánh giá cao về tính minh bạch, rõ ràng của chính sách thuế hiện hành. Ông bà đánh giá thế nào về con số trên?
Ông Lê Đăng Doanh:
Nhược điểm lớn của chính sách thuế của Việt Nam là hay thay đổi, bị điều chỉnh bởi quá nhiều những thông tin hướng dẫn dưới luật, làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam kém minh bạch, thiếu ổn định.
Việt Nam đang có những bước hội nhập quốc tế rất quan trọng trong thời gian tới như thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU), tham gia Hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Vì vậy, chính sách thuế của Việt Nam phải có sự điều chỉnh phù hợp với những cam kết hội nhập để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp của các nước khác.
Kết quả khảo sát đó phản ánh thực tế là các doanh nghiệp than phiền rất nhiều về tính phức tạp trong quan hệ với cơ quan thuế. Các doanh nghiệp Việt Nam phải cần đến 872 giờ để nộp thuế hàng năm, so với mức bình quân 172 giờ của các nước ASEAN khác. Điều này cho thấy gánh nặng về chi phí thời gian và tiền bạc đối với doanh nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị cần nhanh chóng sửa đổi các quy định để tiến gần đến mức bình quân của ASEAN.
Ngành thuế đã có nỗ lực trong việc vận dụng công nghệ thông tin, cải tiến các thủ tục, song kết luận và chỉ đạo của Thủ tướng cho thấy, không có lý do gì để hài lòng với thực trạng hiện này.
AnVu:
Có ý kiến cho rằng, cơ quan thuế cập nhật chính sách thuế mới cho doanh nghiệp còn chậm, người kê khai thuế chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và kịp thời, ông bà đánh giá thế nào?
Ông Lê Đăng Doanh:
Chính sách thuế của Việt Nam thay đổi nhanh quá và rất phức tạp, có thể được giải thích khác nhau. Rất cần có sự thống nhất về cách hiểu, cách vận dụng, và áp các mức thu, các khoản loại trừ trong thu thuế để tránh những tranh chấp không cần thiết.
Việc áp dụng chính sách thuế của cán bộ thuế ở các chi cục thường không nhất quán với quy định, ông thấy sao?
Doanh nghiệp than phiền nhiều về hành vi và cách giải thích của cán bộ thuế. Hiện tượng sách nhiễu và lạm dụng chức quyền đã được nhắc đến trên các cơ quan báo chí nhiều lần.
Rất mong cơ quan thuế sẽ có các biện pháp thích hợp, thực hiện công khai mình bạch để giảm bớt tình trạng này.
AnVu:
Việt Nam nên có thêm biện pháp gì để hỗ trợ các doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển thông qua chính sách giảm nghĩa vụ thuế?
Ông Lê Đăng Doanh:
Việt Nam nên khấu trừ các chi phí đầu tư vào khoa học-công nghệ, nghiên cứu triển khai, vận dụng công nghệ mới, mua bằng sáng chế, phát minh để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới sản phẩm, nâng cao trình độ khoa học-công nghệ.
Thanh Huyen:
Theo đánh giá của ông/bà, sự tham gia của người nộp thuế trong việc góp ý kiến trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế ở Việt Nam có nhiều không, vì sao?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Theo quy định hiện hành, người nộp thuế có quyền trực tiếp hoặc thông qua các hội nghề nghiệp hoặc các kênh khác để đóng góp tham gia xây dựng các văn bản, chính sách về thuế cũng như phản ánh các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách thuế.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy còn không ít người nộp thuế chưa quan tâm đúng mức, còn thờ ơ với công tác xây dựng văn bản pháp luật thuế. Chính điều đó làm cho người nộp thuế tự từ bỏ quyền lợi của mình. Chỉ đến khi gặp vướng mắc trong quá trình thực thi thì mới phản ứng.
Để các luật thuế đi vào cuộc sống, bên cạnh ý kiến của ban soạn thảo thì ý kiến của người nộp thuế có vai trò quan trọng do họ là đối tượng điều chỉnh của luật. Vì vậy, người nộp thuế phải có trách nhiệm, phải có ý thức hơn để phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi cũng như trong quá trình xây dựng các chính sách thuế để qua đó góp phần nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật về thuế.
Thu Kim:
Gần đây, ngành thuế thường xuyên công bố các số liệu hoành tráng về các đợt thanh kiểm tra thuế, theo đó có hàng trăm doanh nghiệp vi phạm mỗi năm với số tiền thất thoát lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Nhưng khi báo chí, giới truyền thông muốn tiếp cận danh sách và số liệu chi tiết tại các doanh nghiệp thì luôn bị từ chối. Theo bà khi ngành thuế đã có các quyết định xử phạt chính thức thì có nên công bố rộng rãi thông tin hay không?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Trước hết phải khẳng định số liệu thanh tra, kiểm tra, truy thu tiền thuế gian lận là chính xác, và cơ quan thuế đều có danh tính các đơn vị và các hành vi vi phạm cụ thể.
Tuy nhiên, việc công khai, công bố thông tin cụ thể thì còn tuỳ vào mức độ, hành vi vi phạm và phải tính đến sự tác động của việc công khai thông tin vi phạm.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế thì người nộp thuế được quyền đảm bảo bí mật thông tin. Nhưng bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng được quyền công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp chây ỳ, cố tình vi phạm pháp luật về thuế. Các hành vi vi phạm, tuỳ theo mức độ nặng nhẹ, cơ quan thuế thực hiện xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo quy định của pháp luật. Công tác thanh kiểm tra thuế, ngoài mục đích nhằm phát hiện, truy thu thuế còn có tác dụng chấn chỉnh, ngăn ngừa các vi phạm giúp doanh nghiệp khắc phục hậu quả, tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh.
Do đó, việc công khai thông tin vi phạm cũng cần được cân nhắc đối với từng trường hợp cụ thể chứ không nhất thiết phải công khai tất cả các trường hợp vi phạm.
Nguyễn Bình:
Mặc dù đã có nhiều cải cách nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn cho biết phải nộp rất nhiều giấy tờ mà cơ quan thuế hoặc hải quan đã có. Vấn đề này liệu có cần thiết phải đặt ra trong đợt sửa đổi luật thuế sắp tới tại quốc hội?
Bà Nguyễn Thị Cúc:
Đúng là trong thời gian gần đây, ngành thuế đã có nhiều cải cách, tuy nhiên, các thủ tục giấy tờ liên quan đến thời gian, tính toán, kê khai nộp thuế của doanh nghiệp tại Việt Nam còn phức tạp. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới thì số giờ nộp thuế của doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm nộp thuế và bảo hiểm xã hội) là 872 giờ, xếp thứ 185/189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Do vậy, Chính phủ đã có nghị quyết 19/CP yêu cầu Bộ Tài chính phải cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó có cắt giảm giờ nộp thuế từ 872 giờ xuống còn 171 giờ (mức trung bình của các nước ASEAN 6) vào năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Hải quan triển khai quyết liệt nội dung này. Triển khai ý kiến của chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 119/2014, sửa đổi 7 thông tư, cắt giảm nhiều tờ khai, thủ tục về thuế.
Chính phủ cũng ban hành Nghị định 91/2014, cắt giảm tiếp các thủ tục về thuế, ví dụ như: bỏ tờ khai tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý, doanh nghiệp có doanh thu không quá 50 tỷ đồng/năm được kê khai thuế VAT theo quy thay cho tháng; bỏ việc viết hoá đơn VAT đối với hàng xuất khẩu…
Bên cạnh đó, Tổng cục thuế, Tổng cục hải quan đã có công văn chỉ đạo gửi các cơ quan thuế, hải quan không được phép thu thêm loại giấy tờ nào được quy định tại các văn bản.
Ngoài các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, thì lần này Chính phủ sẽ trình ra Quốc hội sửa đổi các luật thuế, trong đó có liên quan đến 15 nhóm giải pháp nhằm giảm thiểu các thủ tục, giấy tờ liên quan đến nộp thuế, ưu đãi thuế. Những nỗ lực này đã và sẽ góp phần giảm thiểu các giấy tờ, thời gian của các doanh nghiệp khi làm các thủ tục kê khai về thuế.
Thanh Hà:
Khi sửa đổi luật thuế, giảm thuế quan trọng hay minh bạch thuế quan trọng hơn?
Ông Bùi Ngọc Tuấn:
Trên phương diện người nộp thuế, cả hai yếu tố đều quan trọng. Việc giảm thuế sẽ góp phần nâng cao tăng trưởng cho doanh nghiệp, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, kích thích nhà đầu tư tăng cường, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi xây dựng luật, việc giảm thuế phải cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, chính sách thu hút đầu tư, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước trong từng giai đoạn... Do vậy, lộ trình giảm thuế thường phải được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
Việc minh bạch thuế sẽ giúp người nộp thuế và cơ quan thuế thực thi các chính sách thuế rõ ràng hơn, giảm thiểu sai phạm hoặc cách hiểu chưa đúng từ doanh nghiệp, tránh những điều chỉnh thuế sau này khi có thanh tra thuế. Thông qua đó giúp cả cơ quan thuế và người nộp thuế giảm thiểu thời gian tính toán, kê khai, nộp thuế đúng và đủ.