Trước biến động lãi suất và tỷ giá
Nội dung chính cuộc giao lưu giữa các chuyên gia, lãnh đạo ngân hàng cùng bạn đọc về biến động, xu hướng của lãi suất và tỷ giá
Sau 10 tháng duy trì ổn định, từ ngày 1/12 này, lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm. Ngày 26/11, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp tăng thêm 5% tỷ giá bình quân liên ngân hàng, thu hẹp biên độ từ +/-5% về +/-3%.
Đó là những điều chỉnh mới của Ngân hàng Nhà nước, với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những cách hiểu khác nhau về mục đích, tác động của những điều chỉnh trên.
Nhằm tạo diễn đàn phân tích, định hướng thông tin xoay quanh những điều chỉnh trên, từ 14h - 16h30 ngày 3/12/2009, VnEconomy đã tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Trước biến động lãi suất và tỷ giá” giữa đại diện Ngân hàng Nhà nước, một số chuyên gia, lãnh đạo ngân hàng thương mại với bạn đọc, nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Buổi giao lưu này cũng là diễn đàn chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm và dự báo của các diễn giả về xu hướng của lãi suất và tỷ giá trong năm 2010, giúp nhà đầu tư, doanh nghiệp nắm bắt thông tin, tạo cơ sở định hình những ứng xử phù hợp trong sản xuất, kinh doanh và đầu tư.
Diễn giả của buổi giao lưu gồm:
- Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
- Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fullbright
- Ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB)
- Ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
Sau đây, VnEconomy xin giới thiệu nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến:
Lạm phát năm tới "cao nhất chỉ 8%"
Hung Dai - Nam 28 tuổi - Nhà đầu tư:
Nhiều ý kiến cho rằng việc tăng lãi suất cơ bản sẽ ảnh hưởng xấu đến kinh tế trong nước. Vậy theo các chuyên gia thì việc tăng lãi suất ảnh hưởng xấu - tốt như thế nào đến kinh tế quốc gia trung và dài hạn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi xin được trả lời câu hỏi của bạn như sau:
Kinh tế phục hồi thì tất yếu lãi suất tăng lên, nhu cầu đầu tư tăng lên mà nguồn vốn hữu hạn nên lãi suất tăng là đương nhiên.
Nhưng nếu tăng cao quá thì sẽ hạn chế đầu tư của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng.
Chính phủ đang chủ trương điều chỉnh lãi suất theo đà phục hồi kinh tế từ từ, không gây sốc cho doanh nghiệp.
Để lãi suất ổn định thì lạm phát phải ổn định. Các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng doanh nghiệp Việt Nam đang chịu mức lãi suất cao, có lúc lên tới 21%, so với nhiều nước chỉ 3 - 6%.
Vì vậy mục tiêu lâu dài của Chính phủ là duy trì lãi suất hợp lý và tương đối ổn định để đảm bảo sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nguyen Phu Thien - Nam 33 tuổi - Kế toán:
Tôi đọc trên VnEconomy thấy có thông tin 8 ngân hàng lớn cam kết bán đủ ngoại tệ và kịp thời cho cá nhân và doanh nghiệp. Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng, tại sao đến bây giờ mới có cam kết đó, tại sao chỉ có 8 ngân hàng mà không phải là tất cả?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Tuy nhiên, từ tháng 11 tới nay, Ngân hàng Nhà nướccó điều chỉnh tăng tỷ giá, và để cho việc điều chỉnh này sớm tác động một cách tích cực nhất đối với thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có việc yêu cầu các ngân hàng chiếm thị phần lớn trên thị trường ngoại hối vừa làm cầu nối, vừa thực thi đúng các chính sách, tạo điều kiện cho thị trường được ổn định và đạt được các mục tiêu của việc điều chỉnh tỷ giá.
Như thế, đối với các ngân hàng này, họ không được ưu ái một chính sách ngoại lệ nào về tỷ giá và ngoại hối, mà đây chỉ là vấn đề trách nhiệm, họ phải thực hiện đúng các quy định pháp luật và chủ trương của Ngân hàng Nhà nước, vì lợi ích chung của nền kinh tế cũng như từng ngân hàng thương mại.
Ông Lý Xuân Hải:
Theo chúng tôi hiểu, Ngân hàng Nhà nước muốn lựa chọn các ngân hàng lớn, thị phần rộng và tầm ảnh hưởng cao để có thể triển khai nhanh chương trình hỗ trợ ngoại tệ cho doanh nghiệp có nhu cầu mua USD để nhập khẩu, nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Đây là việc làm lớn, đòi hỏi phải triển khai nhanh.
Về phần mình, chúng tôi sẽ cố gắng tự cân đối nguồn ngoại tệ và sẽ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ khi thiếu hụt.
Lê Thanh Tâm - Nam 36 tuổi - Kiểm toán:
Tôi thấy thời gian gần đây Ngân hàng Nhà nước có phản ứng khá nhanh và tích cực trong việc phản ứng với các tin đồn, giúp nhà đầu tư như chúng tôi hạn chế được rủi ro. Nhưng dù sao thì khi tin đồn xuất hiện và có thể đã gây tác động mới có phản ứng, phản ứng của cơ quan nhà nước phải đi sau. Vậy thì có cách nào để trấn áp thật mạnh, phát hiện và xử lý thật nghiêm những trường hợp tung tin đồn thất thiệt như thế để bảo vệ thị trường và nhà đầu tư? Tôi mong Ngân hàng Nhà nước sớm hợp tác chặt chẽ với cơ quan công an để xử lý mạnh những trường hợp đó. Xin cảm ơn các diễn giả và chúc sức khỏe.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Trước hết, Ngân hàng Nhà nước vào đầu năm hoặc những thời điểm như cuối quý thường công bố các chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ. Thường thì những chính sách đó ổn định và Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng thực hiện theo các chính sách đã công bố để tạo lòng tin đối với công chúng và doanh nghiệp.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước có mở các trang web trên mạng điện tử và thiết lập các đường dây nóng để tạo điều kiện cho người dân có thắc mắc thì có thể liên hệ trực tiếp.
Về phía doanh nghiệp và người dân, theo tôi, nên có niềm tin đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, ủng hộ và cùng thực hiện các chính sách đó. Đồng thời, khi có tin đồn bất thường, có thể liên hệ qua đường dây nóng, hoặc liên hệ với Ngân hàng Nhà nước tại các tỉnh và thành phố để thông tin về vấn đề đó và nhận câu trả lời chính xác về chủ trương và chính sách.
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, người dân và doanh nghiệp cũng nên thực hiện theo các chính sách của cơ quan chức năng và Ngân hàng Nhà nước.
Nếu vậy, các tin đồn sẽ không còn chỗ đứng. Trong trường hợp xảy ra tin đồn, người dân và doanh nghiệp nên tìm đến các phương tiện thông tin đại chúng để theo dõi phản hồi của Ngân hàng Nhà nước trước tin đồn đó.
Tôi cũng đề nghị các doanh nhân nên tiếp cận với các kiến thức về tài chính, tiền tệ và ngân hàng để chia sẻ về mặt nhận thức, kiến thức và hành động trong việc thực thi chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.
Ly Phuoc An - Nam 41 tuổi - Quan ly:
Lãi suất năm 2010 có khả năng tái diễn đà tăng như năm 2008 không, thưa các ông?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo tôi thì không có khả năng đó. Vì, lạm phát của Việt Nam năm 2009 chỉ khoảng 6%. Năm tới có thể cao nhất chỉ 8%.
Trên thực tế mặc dù tín dụng tăng khá cao (11 tháng là 36%) nhưng đây không phải là yếu tố trực tiếp tạo ra lạm phát. Mà yếu tố trực tiếp là cung ứng tiền tệ. Tỷ lệ này năm 2009 được duy trì ở mức 25%, là mức khá hợp lý, thấp hơn nhiều so với 2007 là 36%, chỉ cao hơn chút ít so với năm 2008 là năm thắt chặt tiền tệ.
Hơn nữa, Ngân hàng Thế giới cũng dự báo mặt bằng giá thế giới năm 2010 chỉ tăng 1,5% so với năm 2009. Nhóm hàng dự báo có tăng giá chút ít là lương thực thực phẩm. Nhìn từ hai phía, lạm phát cầu kéo do cung tiền hoặc lạm phát chi phí đẩy do giá thế giới đều thấp. Đó là sự khác biệt so với năm 2008.
Mặc dù nhiều chuyên gia cảnh báo mạnh mẽ về nguy cơ lạm phát nhưng chúng ta phải thấy rằng để phục hồi hoàn toàn nền kinh tế thì thế giới phải mất ít nhất 3 - 4 năm. Trong khoảng thời gian đó, giá cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng khó có thể có đột biến.
Cũng cần phải lưu ý, cho đến nay giá dầu mỏ tăng lên chủ yếu là do đồng Đô la mất giá. Ảnh hưởng của phục hồi kinh tế toàn cầu vào giá dầu mỏ rất ít. Tôi cho rằng giá dầu mỏ vẫn biến động nhẹ trong năm 2010.
Đặng Văn Hiện - Nam 58 tuổi - Công chức:
Đối với doanh nghiệp FDI, điều mà chúng tôi quan tâm nhất là lãi suất và tỷ giá. Nhìn chung, các phương án kinh doanh hàng năm của chúng tôi đều phải tính toán tới rất nhiều nhân tố, trong đó then chốt nhất là sự ổn định của nền kinh tế. Trong ổn định kinh tế, ổn định trong tỷ giá và lãi suất là vô cùng quan trọng. Trong gần 2 năm qua, sự biến động về lãi suất theo hướng VND mất giá, khó mua đô la Mỹ tại các ngân hàng thương mại,.... đã trở thành những trở ngại nghiêm trọng cho việc hình thành các kế hoạch mở rộng kinh doanh hoặc tham gia đầu tư vào các dự án mới. Tôi muốn xin ý kiến của các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách rằng, trong năm 2010 sắp tới, sự ổn định của thị trường ngoại tệ (tỷ giá và nguồn cung), và lãi suất tín dụng sẽ được dự báo ra sao?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Năm 2010, Quốc hội và Chính phủ có chủ trương và mục tiêu là phục hồi tăng trưởng kinh tế, GDP tăng 6,5%, kiềm chế lạm phát ở mức dưới 7%, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Bên cạnh đó, dự báo kinh tế thế giới năm tới sẽ có nhiều thời cơ, thuận lợi và cả những thách thức khó lường tác động tới kinh tế Việt Nam.
Bởi vậy, năm 2010, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm thực hiện các mục tiêu về kinh tế, xã hội.
Trong đó, về lãi suất và tỷ giá sẽ được điều hành theo hướng tương đối ổn định và hài hòa với các cân đối kinh tế, nguồn lực kinh tế và các mục tiêu được đặt ra.
Việc điều hành lãi suất sẽ được cân bằng về mặt lợi ích giữa người gửi tiền, người cho vay và ngân hàng thương mại, sao cho các ngân hàng thương mại sẽ huy động được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế cũng như từ nước ngoài để mở rộng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả.
Về tỷ giá, sẽ được điều hành biến động một cách hợp lý để phù hợp với diễn biến của lạm phát, cung cầu ngoại tệ trên thị trường, nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, thu hút đầu tư nước ngoài, và không tác động xấu tới lạm phát.
Phạm Tuấn Anh - Nam 27 tuổi - Nhà đầu tư:
Về thông tin tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% của Ngân hàng Nhà nước và chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn đúng hạn vào 31/12/09 của Chính phủ. Xét trong ngắn và trung dài hạn, ngành ngân hàng sẽ được lợi hay bất lợi gì từ 2 thông tin trên?
Ông Trương Văn Phước:
Việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào 31/12/2009 nằm trong kế hoạch đã định sẵn của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Đương nhiên hỗ trợ lãi suất chỉ nên tồn tại trong một giai đoạn đủ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiết giảm chi phí, vượt qua khó khăn, cùng cả nền kinh tế ngăn chặn sự suy giảm.
Các ngân hàng thương mại vừa qua đã thực hiện tốt vai trò đưa sự hỗ trợ này đến với các cá nhân, doanh nghiệp thuộc diện đối tượng được thụ hưởng. Các cá nhân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn thì ngân hàng thương mại cũng nhờ đó mà vượt qua khó khăn của chính mình, vì thực ra vốn tín dụng ngân hàng cho cá nhân và doanh nghiệp vẫn là nguồn vốn chủ đạo cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. Họ vay vốn ngân hàng mà gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì ngân hàng cũng khó khăn theo.
Việc tăng lãi suất cơ bản đầu tháng 12 vừa qua cũng thể hiện các yêu cầu của thị trường. Huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế vẫn còn thấp hơn mức tăng vốn tín dụng do yêu cầu đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Trong cơ chế lãi suất tín dụng hiện nay thì các ngân hàng thương mại sử dụng lãi suất cơ bản làm nền và thiết lập trần cho vay gấp 1,5 lần lãi suất cơ bản.
Theo quy luật cung - cầu thì lãi suất với tư cách là một loại giá cũng phải tăng lên khi cầu lớn hơn cung. Các ngân hàng thương mại thiết lập một mặt bằng lãi suất cho vay mới cao hơn thì chắc hẳn cũng xác lập một mặt bằng lãi suất huy động phù hợp. Tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất hiện nay là rất thấp, nếu lãi suất huy động tăng lên thì cũng ít thôi, vì nó đụng chạm đến biên lợi nhuận của ngân hàng.
"Không tin tưởng việc cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do"
Trần Hải Nam - Nam 30 tuổi - Nhân viên tài chính:
Theo ông Lê Xuân Nghĩa, liệu có tác động ngược (tiêu cực) của việc giảm giá VND so với USD không? Khi mà hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam không cân xứng (xuất khẩu nông sản, dệt may… nhập khẩu xăng dầu, nguyên vật liệu cho sản xuất...). Khi đó VND giảm không tăng được yếu tố cạnh tranh của Việt Nam cũng như không giảm được nhập siêu mà ngược lại làm giảm tốc độ tăng trưởng của Việt Nam?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tỷ giá hối đoái là giá cả vĩ mô, nó ảnh hưởng rất sâu rộng đến hệ thống tài chính và kinh tế. Nếu VND giảm giá thì có thể tác động tích cực đến xuất khẩu và đến thâm hụt thương mại, nhưng cũng có thể tác động tiêu cực đến nhập khẩu cũng như nợ nước ngoài của quốc gia cũng như của doanh nghiệp.
Tất nhiên, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vẫn là mục tiêu quyết định. Bởi vì, nó là nguồn để cân bằng cán cân vãng lai và trả nợ của Việt Nam. Ngoài ra tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng nhất định đến lạm phát.
Theo tính toán của chúng tôi nếu tỷ giá hối đoái tăng 10% về ngắn hạn sẽ làm cho lạm phát tăng thêm 1,3% và dài hạn thì có thể tăng thêm 7%. Vì vậy Chính phủ đã cố gắng ổn định tỷ giá hối đoái trong khả năng có thể. Nhưng theo tôi thì vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tỷ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường.
Lê Út - Nữ 29 tuổi - Kinh doanh:
Tôi là nhà đầu tư, theo tôi biết hiện nay ACB là cổ phiếu đã hết “room” cho người nước ngoài. Vậy xin hỏi ông Hải, tại sao ACB không làm cách nào đó để hở “room” để tạo hấp dẫn hơn trên sàn niêm yết, như trường hợp của Eximbank? Nhân tiện, xin hỏi ông Phước, vì sao nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua vào cổ phiếu EIB nhiều như vậy kể từ ngày niêm yết đến nay? Xin cảm ơn hai ông.
Ông Trương Văn Phước:
Có lẽ nhà đầu tư nước ngoài đã xem xét một cách toàn diện hoạt động của Eximbank từ quy mô vốn chủ sở hữu cho đến tổng tài sản, một quá trình ra đời và phát triển 20 năm cộng với những chiến lược trung và dài hạn, nên có một niềm tin mạnh mẽ vào kết quả kinh doanh, cổ tức trong tương lai.
Chính điều này có thể giải thích vì sao họ mua cổ phiếu Eximbank nhiều như thế.
Ông Lý Xuân Hải:
Thứ nhất, khi tăng vốn ACB luôn dành quyền ưu tiên cho các cổ đông hiện hữu, bao gồm các cổ đông nước ngoài. Trong hoạt động này ACB không hề phân biệt cổ đông là nước ngoài hay trong nước. Do tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài tai ACB đã đạt 30% và họ luôn sử dụng quyền nâng vốn của mình, nên hiện nay không có điều kiện để các cổ đông nước ngoài mới mua cổ phiếu của ACB từ các cổ đông trong nước.
Thứ hai, giả sử có room cho cổ đông nước ngoài mua cổ phiếu ACB thì chúng tôi tin rằng room sẽ được các nhà đầu tư nước ngoài tận dụng rất nhanh và sẽ tác động đến giá cổ phiếu nhưng chỉ trong ngắn hạn. Vì vậy, chúng tôi không cho rằng việc mở room cho các cổ đông nước ngoài sẽ làm cho cổ phiếu ACB trở nên hấp dẫn hơn trong dài hạn.
Thứ ba, Hội đồng Quản trị và Ban điều hành ACB luôn cố gắng xây dựng ACB trở thành mộtđịnh chếvới những giá trị mang tính lâu dài, ổn định và bền vững. Vì vậy chúng tôi luôn luôn xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách hoạt động của ngân hàng nhằm tạo dựng giá trị các khoản đầu tư của cổ đông luôn tăng trưởng nhanh, bền vững, rủi ro thấp... để mọi cổ đông tại mọi thời điểm đều cảm thấy hài lòng dù họ là người mua hay bán cổ phiếu ACB.
Chu Giang - Nam 30 tuổi - PV:
Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và các diễn giả, tại các ngân hàng thiếu ngoại tệ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ vẫn không giảm? Thứ hai, xin hỏi, giả sử tỷ lệ dự trữ ngoại tệ các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống hiện là 7% giảm xuống 5%, các kỳ hạn trên 12 tháng từ 5% giảm xuống 3% thị lượng ngoại tệ "dôi” ra của hệ thông sẽ khoảng bao nhiêu, tại ACB và Eximbank sẽ có thêm khoảng bao nhiêu? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lý Xuân Hải:
Dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng với các khoản huy động tiết kiệm và là công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng huy động bằng ngoại tệ thì phải có nghĩa vụ chi trả người gửi bằng ngoại tệ, nên ngân hàng chỉ có thể sử dụng ngoại tệ này cho vay, gửi liên ngân hàng, đầu tư vào các công cụ tài chính như trái phiếu bằng ngoại tệ. Vì thế không thể dùng ngoại tệ huy động để bán cho khách hàng được.
Nguồn ngoại tệ dư ra khi giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 7% xuống 5% (dưới 12 tháng) và từ 5% xuống 3% (trên 12 tháng) vào khoảng 25 triệu USD và chỉ có thể dùng để cho vay, đầu tư như đã nói ở trên.
Trong khi đó, ngoại tệ bán cho doanh nghiệp là nguồn ngoại tệ mà các ngân hàng mua được từ khách hàng, thị trường liên ngân hàng và từ Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng không thể dùng nguồn ngoại tệ "dôi dư" như đã nói ở trên để bán cho khách hàng.
Nguyễn Văn Thắng - Nam 33 tuổi - Kinh doanh:
Theo các diễn giả, Ngân hàng Nhà nước cần làm gì để các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không phải cộng thêm 600 - 800 đồng/USD so với tỷ giá niêm yết chính thức? Liệu có khả năng kết hối, cấm kinh doanh ngoại tệ tại thị trường tự do? Lạm phát sẽ quay trở lại vào năm 2010 là rất lớn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi.
Những năm trước đây chúng ta đã làm được cái điều mà tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do chênh lệch không đáng kể. Nhờ lạm phát thấp, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư. Mỗi năm VND chỉ giảm giá 1%.
Vài năm gần đây mức chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa hai thị trường ngày càng lớn và kéo dài nhất trong vòng 15 năm qua. Nguyên nhân là do lạm phát cao, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay. Ngoài ra cũng do cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái không lih hoạt và chính sách lãi suất giữa VND và USD chưa hợp lý.
Ví dụ, lãi suất cho vay VND được tài trợ 4%, trong khi cho vay ngoại tệ không được tài trợ, điều này dẫn đến một số lượng lớn ngoại tệ bị đẩy ra khỏi lưu thông trở thành phương tiện cất trữ, găm giữ chờ tỷ giá lên.
Do đó, mục tiêu quan trọng nhất là phải kiểm soát được lạm phát và điều chỉnh linh hoạt tỷ giá hối đoái. Tôi không tin tưởng vào việc cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do. Vì thị trường chính thức chưa thay thế được nó. Còn kết hối là biện pháp bất đắc dĩ.
Dũng - Nam 30 tuổi - Kinh doanh:
Biến động tỷ giá, nhìn bề nổi luôn xuất phát từ thị trường tự do (thị trường chợ đen). Tại sao không thể ngăn chặn thị trường này? Mọi giao dịch cả cá nhân và doanh nghiệp đều phải qua ngân hàng. Khi đó, tỷ giá ngân hàng luôn tốt nhất và nhà nước sẽ kiểm soát được đầy đủ các luồng ngoại tệ, giảm dần việc thanh toán thông qua USD. Có thể khó, nhưng quan trọng là có muốn làm hay không (hay lo ngại va chạm lợi ích của một thiểu số nhỏ để ảnh hưởng lớn cả thị trường).
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Nền kinh tế nước ta còn có nguy cơ về lạm phát và nhập siêu, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư trong nhiều năm gần đây chủ yếu dựa vào thặng dư cán cân vốn. Chính vì vậy, nhièu người dân có tài sản bằng tiền thường dự trữ và gửi ngân hàng bằng ngoại tệ.
Bên cạnh đó, nguồn ngoại tệ vào Việt Nam đi qua rất nhiều kênh, trong đó có kiều hối (hàng năm từ 6-8 tỷ USD) và các nguồn thu nhập khác bằng tiền mặt là ngoại tệ, một bộ phận được gửi vào ngân hàng, còn lại được lưu thông trên thị trường tự do. Nếu nền kinh tế gặp khó khăn và có những dấu hiệu không ổn định thì lượng ngoại tệ lưu thông trên thị trường tự do tăng lên.
Cùng với đó là thói quen đã được chấp nhận kéo dài trong nhiều năm qua là người dân có thể thanh toán trực tiếp bằng USD, vàng hoặc ngoại tệ khác trong các hoạt động như mua nhà, phương tiện đi lại, vay nợ…
Ngoài ra, các hiện tượng buôn lậu qua biên giới diễn ra khá phức tạp và phổ biến, việc chống đầu cơ thương mại cũng như đầu cơ ngoại tệ chưa được thực hiện tốt.
Như vậy, xét về mặt lợi ích của những người có tài sản bằng tiền và sự quản lý đối với những lĩnh vực này vẫn còn những bất cập. Chính vì vậy, thị trường tự do vẫn tồn tại. Hiện tượng Đô la hóa này không chỉ ở riêng Việt Nam, mà ở các nước khác như Nga, Lào, Campuchia, Indonesia, các nước vùng Trung Á… vẫn tồn tại thị trường tự do, chiếm tỷ trọng khá lớn.
Quy mô và tỷ trọng của thị trường này có xu hướng ngày càng giảm khi nền kinh tế phát triển, ổn định, lạm phát thấp và cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, Nhà nước có nguồn dự trữ ngoại hối lớn để có thể sẵn sàng can thiệp.
Con đường dài đến đồng tiền chung ASEAN
Nguyen Kong - Nam 37 tuổi - Nhân viên môi giới:
Tại sao Việt Nam và các nước ASEAN không liên kết để tạo một đồng tiền chung, vì như thế sẽ hạn chế được những tác động và khó khăn như hiện nay? Xin các chuyên gia cho biết những điều kiện nào để làm được điều đó và có thể có một đồng tiền chung ASEAN trong tương lai không? Xin cảm ơn.
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Con đường đi đến một đồng tiền chung của bất kỳ một khu vực kinh tế nào là một con đường rất dài và đầy chông gai. Chỉ cần nhìn vào những chặng đường gian nan để đi đến đồng tiền chung Euro là có thể thấy rõ điều này.
Những khó khăn này xuất phát từ các nguyên nhân chính trị và kinh tế. Khoan bàn về những khó khăn chính trị, riêng về mặt kinh tế thì để thống nhất một đồng tiền chung, điều kiện tiên quyết là các quốc gia thành viên phải thống nhất về chính sách tiền tệ và trong một chừng mực nào đó là chính sách tài khóa và thương mại.
Mà để làm được điều này thì mỗi nước, đặc biệt là ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên, buộc phải chấp nhận hy sinh sự độc lập của mình ở mức độ nhất định - một điều không dễ tìm được sự đồng thuận.
Đối với trường hợp của ASEAN với các quốc gia thành viên có trình độ phát triển kinh tế hết sức khác nhau, chính sách kinh tế, tài khóa, tiền tệ, thương mại… cũng không tương đồng thì việc tìm kiếm một tiếng nói chung đối với chính sách tiền tệ là điều rất khó, thậm chí không khả thi trong nhiều năm tới.
Nói cách khác, với những lý do hết sức cơ bản (mặc dù chưa đầy đủ) này, tương lai của một đồng tiền chung ASEAN sẽ còn rất xa xôi.
Cũng phải nói thêm rằng việc có một đồng tiền chung cho khu vực ASEAN không phải là điều kiện cần, và càng không phải là một điều kiện đủ để giải quyết những vấn đề khó khăn hiện nay của Việt Nam cũng như của một số nước khác trong khu vực.
Ông Trương Văn Phước:
Ý tưởng về một đồng tiền chung ASEAN cũng từng đã được đề cập tới dưới nhiều góc độ khác nhau. Thông thường, khi có các biến động về tỷ giá các đồng tiền thì người ta hay nghĩ tới đồng tiền chung như thế.
Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nền kinh tế châu Âu phải mất vài chục năm để cùng thống nhất cho ra đời đồng Euro vào năm 1999, mà bây giờ vẫn còn một số quốc gia khu vực này sử dụng đồng tiền riêng của họ, như Anh quốc chẳng hạn.
Để có một đồng tiền chung cần hội đủ rất nhiều điều kiện, nhưng điều dễ thấy nhất là sự tương đồng về kinh tế giữa các quốc gia đó, bao gồm cấu trúc tài chính, các thể chế cho các loại thị trường hoạt động...
Riêng tôi thì cũng mong muốn Việt Nam cùng với các nước ASEAN bắt tay vào nghiên cứu sự ra đời của một đồng tiền chung như thế trong tương lai.
Tuan Anh - Nam 30 tuổi:
Hiện nay, nhiều nhà đầu tư đang băn khoăn không biết nên cân đối các khoản mục đầu tư như thế nào giữa các kênh: chứng khoán, vàng, ngoại tệ, gửi tiết kiệm, bất động sản... do tình hình diễn biến trên các thị trường này rất thất thường? Mong TS. Lê Xuân Nghĩa cho một lời khuyên, em xin cám ơn nhiều.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng tôi, về mặt chiến lược khi nền kinh tế phục hồi và hưng thịnh thì đầu tư vào tiết kiệm, bất động sản hoặc chứng khoán đều là những danh mục đầu tư tốt.
Đầu tư vào ngoại tệ thì phải cân nhắc. Bạn có thể so sánh tỷ giá giữa VND và USD, giữa USD và các đồng tiền mạnh khác và giả định rằng, đầu năm 2010 ngân hàng trung ương Mỹ bắt đầu tăng lãi suất và đồng USD mạnh lên thì tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có thể thay đổi theo hướng VND yếu thêm.
Nhưng nếu lãi suất VND cũng tăng, bỏ gói hỗ trợ tín dụng ngắn hạn thì VND cũng tăng giá. Vì vậy tôi cho rằng tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có thể có biến động nhẹ vào đầu năm 2010 do các ngân hàng trung ương của các nước và của Việt Nam đều thay đổi lãi suất.
Trong hai thị trường bất động sản và chứng khoán, bạn có thể cân nhắc lựa chọn chứng khoán nếu vốn ít, bất động sản nếu vốn nhiều, hoặc cả hai nếu vốn quá nhiều.
Kim Thu - Nữ 37 tuổi - KTV:
Tôi xin hỏi các diễn giả là vì sao Việt Nam không đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán để tránh lệ thuộc vào đồng USD và có nhiều biến động và khó khăn trong điều hành? Vì sao Ngân hàng Nhà nước không quy định biên độ tỷ giá giữa VND với các đồng tiền khác?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Hiện nay, Việt Nam có giao dịch thương mại và thu hút đầu tư với rất nhiều nước, trong đó có 20 quốc gia có quan hệ thương mại và đầu tư lớn. Pháp luật của Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế không cấm các doanh nghiệp trong việc sử dụng ngoại tệ của các nước làm phương tiện thanh toán. Điều này do bên mua và bên bán thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong các giao dịch thương mại và đầu tư trên thị trường quốc tế, USD vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đối với kinh tế Việt Nam, trong các hợp đồng thương mại và giao dịch về vốn với nước ngoài, đồng USD chiếm tỷ trọng trên 60%.
Mặt khác, việc thanh toán đồng tiền nào còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, hiện tượng tồn tại khách quan là USD chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch.
Trên thực tế, các doanh nghiệp cũng đã sử dụng đồng Euro, Yên Nhật, Nhân dân tệ… trong các giao dịch mua bán và đầu tư. Điều này xuất phát từ các điều kiện về mặt pháp luật cũng như lợi ích của các bên.
"Nhiều doanh nghiệp phải huy động vốn trên thị trường chợ đen"
Ngọc Thủy - Nữ 27 tuổi:
Không còn được hỗ trợ lãi suất và tín dụng nới rộng như trong năm 2009, liệu hoạt động doanh nghiệp trong năm tới có gặp khó khăn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho thấy đầu tư của khu vực doanh nghiệp và tư nhân có chiều hướng giảm bắt đầu tư quý 3/2009. Lý do, hàng tồn kho tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Vì vậy cho nên không được hỗ trợ lãi suất sẽ là khó khăn cộng thêm cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu cầu tiêu dùng tăng mạnh, kể cả trong nước và quốc tế thì những khó khăn này có thể được giảm bớt. Nhiều doanh nghiệp nói với tôi rằng, cái họ cần là tiếp cận được vốn ngân hàng với lãi suất thị trường mà không cần tài trợ, còn hơn là được tài trợ mà không tiếp cận được vốn.
Nhiều doanh nghiệp hiện đang phải huy động vốn trên thị trường chợ đen với lãi suất 4,5 đến 5%/ tháng. Đây là một điều hết sức đáng lo ngại.
Vì vậy vấn đề mấu chốt là tạo mọi điều kiện thuận lợi đề doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng, kể cả bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Trần Minh Tân - Nam 50 tuổi - Doanh nhân:
Câu hỏi 1: Tại sao hầu như các đồng tiền trên thế giới đều giữ giá và lên giá so với USD, đồng tiền của 9 quốc gia còn lại trong ASEAN cũng vậy chỉ trừ Việt Nam?
Câu hỏi 2: Từ năm 1994 đến 2007 có nhiều giai đoạn rất khó khăn nhưng đồng tiền Việt Nam không bị mất giá nhanh như 2 năm gần đây. Nguyên nhân do đâu có phải yếu kém trong điều hành vĩ mô không?
Ông Trương Văn Phước:
Đây là một câu hỏi rất thú vị vì nó giải thích vì sao từ trong quá khứ đến hiện tại khi Đô la Mỹ lên giá ở nước ngoài thì lại không lên giá với VND, ngược lại khi Đô la Mỹ mất giá ở nước ngoài thì lại không xuống giá với VND.
Mỗi cơ chế tỷ giá hối đoái đều phản ánh ở trong lòng nó các yêu cầu để phục vụ một cách tốt nhất cho nền kinh tế có cơ chế đó. Thông thường, các quốc gia đều phải xây dựng được một vùng mục tiêu tỷ giá, dù họ theo đuổi cơ chế tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hay các cơ chế tỷ giá trung gian khác. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Làm sao để điều hành tỷ giá trong vùng tỷ giá mục tiêu để hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, thu hẹp nhập siêu, tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu, tạo niềm tin cho các luồng vốn bên ngoài vào, lại phải cân đối nợ nần quốc gia, nợ nần doanh nghiệp... là mục tiêu quan trọng nhất cho việc điều hành tỷ giá.
Vùng tỷ giá mục tiêu ngoài sự tác động của giá trị các ngoại tệ khác so với đô la Mỹ còn chịu ảnh hưởng bởi chênh lệch lạm phát của Việt Nam với các quốc gia, đối tác thương mại, đầu tư... chủ yếu.
Đương nhiên tỷ giá còn chịu tác động bởi quy luật cung - cầu, như năm 2007 cung lớn hơn cầu thì tỷ giá USD lại đi xuống so với VND.
Phạm Tuấn Anh - Nam 27 tuổi - Nhà đầu tư:
Thưa ông Phước, ảnh hưởng của việc tăng lãi suất cơ bản và dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào cuối năm tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong ngắn và trung dài hạn?
Ông Trương Văn Phước:
Câu hỏi này tôi đã trả lời, xin bạn xem lại phần nội dung trên của buổi giao lưu.
Nhưng có thể nói nó còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác của nền kinh tế, như mức tăng lạm phát, tăng trưởng tín dụng, cung - cầu vốn thị trường...
Đã áp dụng nhiều biện pháp ngừa lạm phát
Lê Thương Tín - Nam 27 tuổi - Môi giới chứng khoán:
Xin các ông cho biết, Ngân hàng Nhà nước bằng cách nào để kiềm chế lạm phát có thể xảy ra đầu quý 1/2010?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, một phần câu hỏi này tôi đã trả lời ở các câu hỏi trước, bạn tham khảo nhé.
Với quý 1/2010, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp ngay từ bây giờ để kiểm soát lạm phát năm 2010. Như kiểm soát tín dụng, kiểm soát cung ứng tiền, quản lý thị trường ngoại hối, vàng...
Đồng thời, các bộ khác cũng đã có những biện pháp để tắng cung hàng hóa và kiểm soát giá cả vào dịp Tết Nguyên đán.
Nhóm hàng dự đoán có thể tăng giá chút ít là lương thực, thực phẩm, chủ yếu là lương thực, do giá thế giới đang tăng. Còn hàng công nghiệp và dịch vụ không có khả năng biến động nhiều.
Viet Chinh - Nam 36 tuổi - Kinh doanh:
Suốt những năm qua Ngân hàng Nhà nước hay chính sách tiền tệ luôn đứng trước yêu cầu hỗ trợ tăng trưởng, nhưng cũng phải kiềm chế lạm phát. Hai yêu cầu này có nhiều điểm mâu thuẫn, như về yếu tố cung tiền và tăng đều tư. Vậy xin hỏi các chuyên gia đâu là giải pháp có thể dung hòa được hai yêu cầu này? Thứ hai, việc điều chỉnh tỷ giá cũng đứng trước những mâu thuẫn lợi ích: hỗ trợ xuất khẩu, nhưng nhập khẩu và nợ nước ngoài lại tăng, đầu vào giá cả tăng... Liệu có thể dung hòa được những lợi ích đó, hay vẫn phải cân nhắc và buộc phải lựa chọn và "hy sinh"? Trân trọng cảm ơn.
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Bạn nhận xét rất đúng rằng trong giai đoạn vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đứng trước cùng một lúc hai nhiệm vụ là vừa hỗ trợ tăng trưởng vừa ổn định giá trị đồng tiền (tức là giữ ổn định tỷ giá và CPI), và thường thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên hơn so với ổn định giá trị đồng tiền (dấu hiệu cho thấy điều này là Ngân hàng Nhà nước thường chỉ được yêu cầu thắt chặt tiền tệ khi CPI đã vượt quá một ngưỡng nguy hiểm).
Nói cách khác, ở Việt Nam, chính sách tiền tệ thường chạy theo chính sách tăng trưởng, và điều này cũng có nghĩa là để tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn thì cung tiền và tín dụng cũng phải tăng rất nhanh - điều mà chúng ta đã quan sát được trong hai năm 2007 - 2008 vừa qua.
Việc tăng trưởng tín dụng và đầu tư cao không nhất thiết làm tăng CPI nếu như tín dụng được sử dụng một cách hiệu quả - tức là góp phần tạo ra giá trị gia tăng và tăng năng suất. Ngược lại, nếu nguồn tiền được đổ vào nền kinh tế rất nhiều nhưng lại không tạo được một lượng giá trị gia tăng tương ứng thì kết quả sẽ là lạm phát - điều mà chúng ta đã chứng kiến trong giai đoạn bất ổn vĩ mô trong năm 2007 - 2008.
Như vậy, trong dài hạn, để có thể tăng trưởng nhanh và bền vững, cần gia tăng hiệu quả của nền kinh tế. Đáng tiếc là về phương diện này, nền kinh tế của chúng ta có những khiếm khuyết cơ bản.
Chẳng hạn như hệ số ICOR (đo lường số đơn vị đầu tư để tạo ra được một đơn vị tăng trưởng GDP) của Việt Nam đã trên 5 - tức là tăng trưởng của chúng ta rất tốn kém; đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp vào tăng GDP của Việt Nam giảm từ 50% vào đầu những năm 1990 xuống chỉ còn 15% vào những năm gần đây và thấp hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan hay Trung Quốc.
Nguyen Thu Na - Nữ 30 tuổi - PV:
Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh tra toàn diện hoạt động của các tổ chức tín dụng có lãi suất huy động VND từ 10,5% trở lên. Các ông nói gì về điều này?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Kể từ ngày 1/12, lãi suất cơ bản là 8%/năm. Theo đó, các mức lãi suất cho vay và huy động bằng VND của các ngân hàng thương mại không vượt quá 12%/năm.
Để đảm bảo hiệu quả và an toàn hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại phải có mức chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào hơn 2%/năm. Như thế, các ngân hàng thương mại huy động vốn với mức lãi suất từ 10,5% trở lên là một hiện tượng không bình thường, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh trong việc huy động vốn, có nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn hệ thống.
Vì vậy, với chức năng giám sát an toàn hoạt động kinh doanh đối với các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn cần phải tiến hành thanh tra các ngân hàng thương mại này để làm rõ nguyên nhân của việc huy động lãi suất cao và xử lý kịp thời các nguy cơ có thể xảy ra đối với thị trường và hệ thống ngân hàng.
Đối với thị trường và hoạt động của ngân hàng trung ương ở các nước, điều này cũng là bình thường khi ngân hàng trung ương thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thái Văn Thành - Nam 42 tuổi - XNK:
Hiện nay các ngân hàng thương mại đều tập trung phát triển dịch vụ thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu. Xin hỏi các đại biểu, quý vị có những tư vấn, dịch vụ nào thật cụ thể để giúp doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế tối đa được các khoản vay, mua và khó mua USD như thời gian qua, để doanh nghiệp không phải "thắc thỏm" và "giật mình" mỗi lần biến động tỷ giá?
Ông Trương Văn Phước:
Ngân hàng Xuất nhập khẩu chúng tôi cũng có thế mạnh về việc cung ứng các dịch vụ như bạn vừa nêu. Tuy nhiên, cũng phải hết sức nỗ lực và vận dụng cả một gói các sản phẩm dịch vụ để cùng với các doanh nghiệp chia sẻ các khó khăn.
Chẳng hạn trong 6 tháng qua chúng tôi đã sử dụng nghiệp vụ cho vay ngoại tệ có kèm bảo hiểm tỷ giá trên 100 triệu USD. Tỷ giá tăng lên chúng tôi bị thiệt, nhưng bù đắp lại được hưởng mức lãi suất cho vay USD cao hơn nhiều nếu phải gửi ở nước ngoài bình quân 1%/năm. Tạo ra một môi trường tương đối ổn định kể cả lãi suất, tỷ giá thì nằm ngoài khả năng của bất kỳ một tổ chức tín dụng nào.
Nhưng chúng tôi luôn luôn đứng bên cạnh các doanh nghiệp để chia sẻ những khó khăn như thế, trong năm 2008 Eximbank cũng đã có chương trình cho vay VND theo lãi suất 8,4%/năm trong khi trần lãi suất là 21%/năm. Cho vay lãi suất thấp, nhưng được các doanh nghiệp hỗ trợ bán lại ngoại tệ cho chúng tôi.
Đây là một bài học lớn trong kinh doanh mà chúng tôi đã thu hoạch được.
Do Van Ly - Nam 36 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có nói rằng việc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ là trách nhiệm đối với nền kinh tế. Tôi ủng hộ quan điểm này. Nhưng đây là một giải pháp mang tính tình thế, khó có thể kéo dài bởi phải tôn trọng tính thị trường và tự chủ của doanh nghiệp. Ý kiến của diễn giả như thế nào về giải pháp này? Xin cám ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi cũng đồng ý với quan điểm của bạn. Nếu thị trường kỳ vọng tỷ giá tăng thì nhiều người sẽ găm giữ ngoại tệ, và ngược lại kỳ vọng giảm thì sẽ bán vội. Đấy là phản ứng tự nhiên.
Vì vậy, Chính phủ phải xóa bỏ những kỳ vọng bằng cách hoặc làm cho tỷ giá hối đoái ổn định, hoặc thả nổi tỷ giá theo thị trường. Trước mắt thì Chính phủ chủ trương linh hoạt tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc thị trường. Và nếu mức độ linh hoạt kém thì những kỳ vọng nói trên sẽ xuất hiện.
Ly Phuoc An - Nam 41 tuổi - Quan ly:
Thưa ông Lý Xuân Hải, liệu tỷ giá có thể tăng trên 22.000 đồng/USD, và nếu có thì vào thời điểm nào?
Ông Lý Xuân Hải:
Để tính toán tỷ giá giữa hai loại tiền tệ của hai quốc gia, cần đánh giá căn cứ trên sức mạnh nội tại và cấu trúc của mỗi nền kinh tế, các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách đầu tư và khuyến khích đầu tư, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm và dịch vụ, thị trường tiêu thụ... cũng như sự tương quan giữa các yếu tố trên của 2 quốc gia.
Trong điều kiện đó, có thể nói tỷ giá giao dịch USD/VND trên thị trường hiện nay thể hiện tương đối chính xác tương quan của USD/VND, trong đó đã thể hiện kết quả và ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ mới được ban hành bởi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Việc dự báo tỷ giá cần căn cứ vào phân tích, đánh giá và dự báo các yếu tố nêu trên nên chỉ mang tính chất tham khảo và mang tính chủ quan của mỗi người. Đặc biệt vấn đề tỷ giá phụ thuộc rất nhiều vào sự tương quan giữa giá trị của 2 loại tiền tệ là yếu tố được mỗi quốc gia có chủ quyền cân nhắc rất thận trọng trước khi thực thi các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sức mạnh của đồng tiền và phục vụ các mục tiêu lâu dài của quốc gia ấy.
Như vậy, tỷ giá USD/VND sẽ đạt mức bao nhiêu còn phụ thuộc vào các chương trình và chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng như tình hình kinh tế tài chính quốc tế trong tương lai. Hiện nay Chính phủ đang tập trung tăng trưởng kinh tế trên nền tảng sự ổn định chính sách tiền tệ.
Và như vậy theo tôi, trong tương lai gần tỷ giá USD/VND sẽ không thể đạt con số 22.000 đồng này.
Pham Quoc Hung - Nam 27 tuổi - Nhân viên ngân hàng:
Việc tăng lãi suất thông thường sẽ giúp cho đồng tiền lên giá. Vậy theo các ông việc đồng Việt Nam mất giá so với USD hiện nay có phải là trái quy luật không. Khi nào thì đồng Việt Nam lấy lại được giá trị đã mất của mình.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Đúng là tăng lãi suất làm cho VND tăng giá, vì vậy lần này cùng với việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, Chính phủ chủ trương tăng lãi suất cơ bản và chấm dứt gói hỗ trợ tín dụng ngắn hạn vào cuối năm 2009 là nhằm hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái.
Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản có hiệu lực từ ngày 1/12/2009, vì vậy nó chưa có tác dụng hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái nhưng có thể hiểu tác dụng sẽ mạnh dần lên trong thời gian tới.
Trong kinh tế thị trường không đặt vấn đề sẽ lấy lại được những gì đã mất, vì thực tiễn luôn thay đổi.
Nguyễn Văn Tuấn - Nam 30 tuổi - Ngân hàng:
Theo nhu cầu thị trường hiện tại, có thể thấy cầu về USD ngày một tăng cao trong những tháng cuối năm. Theo các diễn giả, Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể nào nhằm giảm độ chênh giữa tỷ giá niêm yết và thực tế giao dịch trên thị trường (tất nhiên không phải bằng biện pháp nâng tỷ giá của VND/USD như thời gian vừa qua)?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Từ ngày 26/11, theo điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại có thể giao dịch USD với mức tỷ giá trần 18.500 VND/USD. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, mức tỷ giá này là phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và thị trường đã có phản ứng tích cực. Thanh khoản ngoại tệ trên thị trường đã tăng lên, tỷ giá trên thị trường tự do cũng giảm xuống.
Tuy nhiên, phải mất một thời gian ngắn nữa, sự điều chỉnh này mới “thẩm thấu” mạnh vào thị trường. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các biện pháp can thiệp như bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại có trạng thái ngoại tệ âm trên 5%, triển khai việc yêu cầu các tổng công ty bán ngoại tệ và các biện pháp khác để tăng cung ngoại tệ ra thị trường, kiểm soát nhập siêu…
Với các biện pháp này, thị trường tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tích cực, kéo tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống, biến động xoay quanh mức của thị trường chính thức.
Việc thực thi chính sách ngoại hối của Nhà nước cũng cần sự ủng hộ và chấp hành của các doanh nghiệp và người dân. Có vậy, chính sách mới có hiệu quả và hiệu lực, thị trường tiền tệ, ngoại hối được ổn định, đem lại lợi ích cho cộng đồng dân cư và doanh nghiệp.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Như đã trả lời nhiều bạn trước bạn, lãi suất VND ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn. Vì vậy, để ổn định tỷ giá hối đoái cần có chính sách lãi suất phù hợp, đặc biệt là mức chênh lệch giữa lãi suất VND và ngoại tệ.
Bắt đầu từ tháng 11/2009 tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu đang mạnh lên, đây một mặt là dấu hiệu của kinh tế phục hồi, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và cả hàng tiêu dùng đang tăng trở lại. Vì vậy, thâm hụt thương mại cũng sẽ lớn hơn so với các tháng đầu năm và áp lực tăng tỷ giá hối đoái là điều hiển nhiên.
Chính phủ có nhiều cách để giải quyết căng thẳng ngoại tệ như kiểm soát nhập khẩu, đặc biệt là hàng tiêu dùng, đẩy mạnh giải ngân vốn ODA trực tiếp, điều chỉnh lãi suất VND, và cuối cùng là điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tất nhiên là cần có thời gian để các biện pháp này phát huy tác dụng. Tôi tin rằng, mặc dù nhu cầu ngoại tệ cuối năm tăng lên nhưng tỷ giá hối đoái sẽ ít biến động trong thời gian tới.
Cũng có ý kiến cho rằng điều chỉnh tỷ giá hối đoái như vừa qua là chưa đủ "đô", và như vậy vẫn còn kỳ vọng tăng tỷ giá hối đoái và tình trạng găm giữ hoặc cất trữ ngoại tệ vẫn còn khá lớn. Đây là vấn đề phức tạp cần phải tính toán chi tiết. Nhưng theo tôi cách tốt nhất là hành động, hành động như nghị quyết của Quốc hội đã quy định là linh hoạt theo nguyên tắc thị trường.
Do Van Ly - Nam 36 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có nói rằng việc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ là trách nhiệm đối với nền kinh tế. Tôi ủng hộ quan điểm này. Nhưng đây là một giải pháp mang tính tình thế, khó có thể kéo dài bởi phải tôn trọng tính thị trường và tự chủ của doanh nghiệp. Ý kiến của diễn giả như thế nào về giải pháp này? Xin cám ơn.
Ông Trương Văn Phước:
Nếu thị trường gặp phải những khó khăn thì một công dân bình thường cũng phải chung tay cùng Nhà nước chia sẻ khó khăn đó, huống hồ đó là các doanh nghiệp mà người chủ lại là Nhà nước.
Tôi hoàn toàn ủng hộ chủ trương mà Thủ tướng đã tuyên bố, đó là: các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có ngoại tệ phải bán cho các tổ chức tín dụng để cung ứng cho nền kinh tế, khi có nhu cầu thì mua lại. Vì sao một chủ trương đúng đắn như thế không được thực hiện nghiêm túc, kịp thời?
Đương nhiên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có các nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp pháp của họ. Nhưng nếu vì có nhu cầu trong tương lai, có thể rất gần, có thể rất xa, mà cứ giữ khư khư ngoại tệ trên tài khoản thì mất cân đối cung - cầu ngoại hối là chuyện đương nhiên.
Tôi tin cuối cùng rồi chủ trương đó sẽ được thực hiện nhanh và nghiêm túc, góp phần tạo sự ổn định của thị trường ngoại hối.
Nguyen Hai - Nam 39 tuổi - Phân tích viên:
Tôi ủng hộ quan điểm và lý do mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra là tăng lãi suất nhằm chủ động hơn trong việc phòng ngừa lạm phát cao trở lại. Tuy nhiên, đi cùng với những điều chỉnh vừa qua, theo tôi Ngân hàng Nhà nước cũng nên thông tin cụ thể về định hướng tăng trưởng tín dụng trong năm tới để người dân, doanh nghiệp có thể chủ động hơn. Theo các diễn giả thì trong năm 2010 tăng trưởng tín dụng như thế nào thì hợp lý?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi.
Về lý thuyết thì có công thức để tính nhu cầu tín dụng hằng năm và có thể ước được tốc độ tăng trưởng tín dụng hằng năm. Còn về chính sách thì Ngân hàng Nhà nước dự kiến điều chỉnh mức tăng trưởng tín dụng một cách từ từ, nhằm kiểm soát lạm phát trong trung hạn và hỗ trợ cho phục hồi và phát triển trở lại của doanh nghiệp.
Dự đoán của tôi là tăng trưởng tín dụng năm tới có thể giảm xuống dưới 30%. Và như vậy cũng đã có những khó khăn nhất định cho khu vực doanh nghiệp.
Anh Nam - Nam 39 tuổi - Nhà đầu tư:
Cảm ơn VnEconomy và các diễn giả. Đây là chủ đề mà chúng tôi (nhóm các nhà đầu tư) thảo luận vào các buổi cà phê sáng. Chúng tôi nhận định rằng lãi suất năm 2010 để giữ ổn định sẽ phải đòi hỏi nỗ lực rất lớn của các ngân hàng và chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các ông nghĩ sao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn các bạn đã quan tâm, như tôi đã trả lời, nếu kinh tế phục hồi mạnh mẽ thì tất yếu lãi suất có xu hướng tăng lên. Điều này đúng với mọi nền kinh tế, vì nhu cầu đầu tư tăng lên mà nguồn tài chính lại có hạn.
Tuy nhiên ở nước ta còn phụ thuộc vào hiệu quả của việc chống lạm phát. Tôi cho rằng, ổn định được lãi suất vào giai đoạn hiện nay, kể cả trong năm 2010 là một nhiệm vụ rất khó khăn. Nhưng duy trì cho lãi suất tăng nhẹ, tiến dần tới ổn định khi kinh tế phục hồi vững chắc là điều có thể.
Tạ Thanh Bình - Nam 32 tuổi - Phân tích tài chính:
Xin hỏi quý vị khách mời một số câu hỏi sau:
1. Nguyên nhân tại sao lại có một chính sách thay đổi đột ngột như thế trong khi các nhân vật quan trọng của Chính phủ đăng đàn trước đó đã cam kết giữ nguyên cho đến hết năm 2009?.
2. Việc thay đổi tỷ giá đã làm cho tỷ giá tự do giảm xuống, tuy nhiên điều này có bền vững trong thời gian tới, liệu tỷ giá niêm yết có tiếp tục chạy theo tỷ giá tự do khi chính sách không đủ mạnh để làm cho tỷ giá tự do xích gần với tỷ giá niêm yết? Nếu giải quyết tốt thì sẽ là biện pháp tốt, nếu giải quyết nửa chừng thì liệu có trở thành một tiền lệ xấu là tỷ giá niêm yết chạy theo tỷ giá tự do?
3. Trong thời gian tới liệu có sức ép gì để tiếp tục nâng lãi suất cơ bản và tỷ giá nữa không?
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Bạn Tạ Thanh Bình thân mến, việc điều chỉnh tỷ giá vừa qua của Ngân hàng Nhà nước không phải “chạy theo tỷ giá tự do” mà là một hành động phản ứng theo hướng thích hợp với tình hình cung cầu và diễn biến của thị trường ngoại hối.
Cụ thể là trong một thời gian dài, VND đã được định giá cao so với USD. Đồng thời, trong điều kiện thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tăng nhanh như hiện nay (mức thâm hụt thương mại của tháng 11/2009 là gần 2 tỷ USD và của 11 tháng đầu năm là trên 10 tỷ USD), thị trường ngoại hối căng thẳng do cầu vượt xa cung, tỷ giá trên thị trường tự do cao hơn so với tỷ giá chính thức tới 10%… thì việc giảm giá VND chỉ là vấn đề thời gian và mức độ.
Cho đến thời điểm này, mặt dù căng thẳng trên thị trường ngoại hối đã dịu bớt nhưng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và chính thức vẫn còn khoảng 1.000 đồng/USD, bên cạnh đó những sức ép làm giảm giá VND như lạm phát, thâm hụt thương mại và tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối giảm... vẫn còn đó, có nghĩa là sức ép tiếp tục giảm giá VND vẫn đang được duy trì, mặc dù nhẹ hơn so với trước khi Ngân hàng Nhà nước nới tỷ giá.
Nguyễn Thành Minh - Nam 35 tuổi - Kinh doanh:
Xin phép được hỏi ông Bảo một số câu hỏi sau đây:
1) Khi đưa ra lãi suất cơ bản hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước dựa trên những cơ sở nào?
2) Ông có nghĩ rằng, phát ngôn của những nhà quản lý trên báo chí sẽ được coi là cam kết với dân chúng, nếu phát ngôn một đằng làm một nẻo thì điều đó nói lên điều gì?
3) Theo ông, tỷ giá ngoại tệ VND/USD hiện nay đã phản ánh trung thực chưa, ông có dự báo gì về tỷ giá VND/USD sau 12 tháng nữa?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn,
Lãi suất cơ bản là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, là cơ sở để ngân hàng thương mại ấn định lãi suất huy động và cho vay. Mức lãi suất này đạt yêu cầu tạo điều kiện cho các giao dịch gửi và vay tiền diễn ra thuận lợi.
Thực tế, trong thời gian qua, mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đã đạt được mục tiêu này, bởi vì, khi xác định và công bố lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước có sự phân tích cụ thể và dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tình hình cung cầu vốn thị trường, tâm lý của doanh nghiệp và người dân, xu hướng lãi suất trên thị trường quốc tế, cũng như một số biến kinh tế khác làm cơ sở cho việc đưa ra một mức lãi suất cơ bản hợp lý.
Theo quy định của pháp luật về báo chí và công chức cũng như để đảm bảo uy tín của mình, tôi nghĩ rằng, các nhà quản lý có trách nhiệm khi công bố các thông tin với báo chí phải đưa ra những phát ngôn hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, và các chính sách, giải pháp mà các cơ quan đó đang triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, thị trường nước ta chịu tác động tổng hợp của các yếu tố trong và ngoài nước, mà có nhiều nhân tố biến động chưa được lường trước, sẽ kéo theo các phản ứng chính sách diễn ra nhanh hơn kỳ vọng của thị trường. Mục tiêu của phản ứng chính sách này là nhằm ổn định thị trường và hạn chế những rủi ro đối với lợi ích của doanh nghiệp và người dân. Điều này là hoàn toàn tích cực.
Vấn đề tỷ giá tôi đã đề cập ở trên.
Nguyễn Thu Trang - Nữ 26 tuổi - Chuyên viên phân tích:
Liệu có khả năng ngân hàng sẽ bị hạn chế / không cho phép kinh doanh sàn vàng nữa hay không? Ảnh hưởng về mặt doanh thu / lợi nhuận từ việc này đến họat động kinh doanh vàng của ACB?
Ông Lý Xuân Hải:
Hoạt động kinh doanh vàng hiện nay chỉ là một trong các hoạt động của ACB. Trong mảng hoạt động này có hai hoạt động kinh doanh độc lập: môi giới hoạt động đầu tư vàng thực hiện tại Trung tâm Giao dịch vàng ACB và hoạt động tự doanh vàng trong nước và nước ngoài.
Hoạt động môi giới tại Trung tâm Giao dịch vàng ACB chỉ đem lại một khoản thu nhập từ phí, không lớn mà chủ yếu là để cung cấp các sản phẩm đầu tư và bảo hiểm tài sản cho khách hàng.
Mô hình kinh doanh hàng hoá - ngoại tệ (trong đó có vàng) tại một điểm giao dịch tập trung, được cung cấp bới các định chế tài chính và môi giới chuyên nghiệp, với tính đòn bẩy cao, an toàn và hiệu quả... hiện đang rất phổ biến trên toàn thế giới mà Việt Nam chỉ mới bắt đầu triển khai.
Chúng tôi hy vọng Chính phủ và các cơ quan hữu quan sẽ sớm chuẩn hoá và ban hành các văn bản hướng dẫn để các hoạt động này được chuẩn hoá và hiệu quả hơn. Căn cứ các quy định và khung pháp luật hiện hành, các hoạt động này có thể được triển khai nhưng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế.
Các hoạt động kinh doanh vàng trong nước và kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài của ACB đã, đang và sẽ được triển khai mà không liên quan đến hoạt động của Trung tâm Giao dịch vàng ACB. Các hoạt động này đã và đang đem lại cho ACB nguồn thu nhập đáng kể. Đặc biệt kinh doanh vàng đã giúp ACB sử dụng một cách rất sáng tạo và hiệu quả các nguồn vốn huy động của mình.
Những hoạt động này mới là dáng kể và có ý nghĩa lớn trong thu nhập của ACB.
"Tỷ giá tăng lên có người vui, có kẻ buồn"
Viet Chinh - Nam 36 tuổi - Kinh doanh:
Suốt những năm qua Ngân hàng Nhà nước hay chính sách tiền tệ luôn đứng trước yêu cầu hỗ trợ tăng trưởng, nhưng cũng phải kiềm chế lạm phát. Hai yêu cầu này có nhiều điểm mâu thuẫn, như về yếu tố cung tiền và tăng đều tư. Vậy xin hỏi các chuyên gia đâu là giải pháp có thể dung hòa được hai yêu cầu này? Thứ hai, việc điều chỉnh tỷ giá cũng đứng trước những mâu thuẫn lợi ích: hỗ trợ xuất khẩu, nhưng nhập khẩu và nợ nước ngoài lại tăng, đầu vào giá cả tăng... Liệu có thể dung hòa được những lợi ích đó, hay vẫn phải cân nhắc và buộc phải lựa chọn và "hy sinh"? Trân trọng cảm ơn.
Ông Trương Văn Phước:
"Hy sinh" là một đức tính cao cả trong đời sống thực, cũng như trong kinh tế học đã chỉ ra sự "đánh đổi" (trade off).
Thông thường các nền kinh tế chuyển đổi như chúng ta đã thấy đều mong muốn duy trì một mức độ tăng trưởng cao. Muốn vậy cần phải có các nguồn lực về vốn, lao động, công nghệ...
Vốn thì bao gồm vốn trong nước và vốn nước ngoài. Nếu vốn nước ngoài vào nhiều thì đòi hỏi mức vốn trong nước có ít đi, ngược lại, nếu vốn nước ngoài vào ít chắc hẳn nguồn vốn trong nước phải tăng lên để bù đắp cho nhu cầu vốn thực của nền kinh tế. Vốn thực của nền kinh tế mà cao thì áp lực lên lạm phát càng nhiều.
Nhưng cũng cần nói rõ vốn thực của nền kinh tế bao gồm vốn tín dụng ngân hàng, đầu tư và chi tiêu của Chính phủ, kể cả chênh lệch trên cán cân thương mại. Một chính sách kinh tế vĩ mô tối ưu là phải thực hiện cho được sự "đánh đổi" tối ưu như thế. Được cái này thì mất cái kia, làm sao được nhiều mà mất ít...
Tỷ giá hối đoái cũng thế thôi. Tỷ giá tăng lên có người vui, có kẻ buồn, nhưng ở tầm vĩ mô thì phải giải được bài toán tối ưu cho các biến số kinh tế vĩ mô. Điều quan trọng là làm sao tạo ra được một kỳ vọng hợp lý của thị trường trong một môi trường mà thông tin được truyền dẫn kịp thời, đầy đủ để có một niềm tin đúng đắn về các chính sách.
Kien Thiet - Nam 34 tuổi - NVTC:
Có một lẽ đương nhiên theo tôi là ai cũng nghĩ đến: Việc điều chỉnh lãi suất và tỷ giá đương nhiên là vì những mục đích tốt, bởi nếu không tốt thì điều chỉnh làm gì. Thế mà, vừa qua nhiều nhà đầu tư hoảng hốt, bán tháo cổ phiếu, doanh nghiệp lo chi phí vay tăng lên... Liệu những phản ứng đó có hợp lý? Hay những tác động tích cực phải chờ đợi trong dài hạn? Và theo các chuyên gia, có những giải pháp nào để giải quyết dứt điểm những biến động và khó khăn không, hay cứ phải linh hoạt và thay đổi theo thị trường? Xin cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Để tránh những phản ứng hoảng hốt của các nhà đầu tư thì cách tốt nhất là phải làm cho chính sách trở nên dễ dự đoán. Muốn như vậy, thì chính sách cần công khai, minh bạch và nhất quán với tầm nhìn chiến lược. Nếu chính sách thiếu tầm nhìn thường giật cục, khó dự đoán và làm mất lòng tin của các nhà đầu tư.
Một chính sách dễ dự đoán nhất là linh hoạt theo thị trường. Vì, trên thực tế, cũng không có cách nào hiệu quả hơn. Các giá cả như tỷ giá hối đoái, lãi suất và giá cả hàng hóa đều là những chỉ dẫn của thị trường cho các nhà đầu tư.
Mỗi khi chỉ dẫn này méo mó thì ngoài việc hoảng hốt thậm chí còn đầu tư sai, làm thất thoát tài sản cá nhân và làm suy yếu nền tảng tài chính quốc gia.
Phan Van Quoc - Nam 24 tuổi - C.E.O:
Chúc buổi giao lưu thành công tốt đẹp. Đứng trước biến động tỷ giá và biến động lãi suất, chúng ta có thấy chúng ta hy sinh quá nhiều thành quả cho kiểm soát vĩ mô hay không? Trong khi vi mô là những đứa trẻ đang khóc "thèm sữa" mà trong khi không biết người mẹ cho uống gì?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn câu hỏi của bạn. Thực ra, Chính phủ nào cũng đeo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà mục tiêu này được nhiều doanh nghiệp hưởng ứng.
Tuy nhiên, ổn định kinh tế vĩ mô là nền tảng để tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Điều quan trọng là nó tạo ra lòng tin của dân chúng vào Nhà nước, vào hệ thống tài chính của một quốc gia. Vì vậy, tất cả các nước đều ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách để cho ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ và nằm dưới sự giám sát của Quốc hội nhằm kiểm soát được lạm phát mà không bị sức ép từ phía Chính phủ.
Thông thường thì người ta phải hy sinh những mục tiêu ngắn hạn để đạt mục tiêu dài hạn.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Xin hỏi ông Lê Xuân Nghĩa: Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia có trách nhiệm gì đối với các sai phạm trên thị trường chứng khoán không? Gần đây có rất nhiều thông tin về việc một số công ty chứng khoán cùng các nhà đầu tư VIP của họ đánh lên hay đánh xuống một số chứng khoán nào đó. Đây là một điều tối kỵ đối với thị trường chứng khoán các nước vì nó làm méo mó thị trường và thường bị xử phạt rất nặng. Nhưng tại sao ở Việt Nam chưa thấy có động thái gì chấm dứt việc này?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo khảo sát của chúng tôi thì trên thị trường chứng khoán đang có một số hiện tượng như bạn nêu. Nghiêm trọng nhất là huy động vốn của dân chúng để ủy thác đầu tư, dịch vụ mua bán ký quỹ của khách hàng VIP. Điều này không chỉ tạo ra sự không công bằng mà mặt khác còn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư đó tạo sóng, làm giá, lũng đoạn thị trường.
Đồng thời, tạo ra rủi ro rất lớn cho các nhà đầu tư và công chúng nhỏ. Chúng tôi đang nghiên cứu, khảo sát và sẽ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về vấn đề này để Thủ tướng chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán kịp thời chấn chỉnh.
Trần Hải Nam - Nam 30 tuổi - Nhân viên tài chính:
Theo các ông, việc điều chỉnh tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước vừa rồi liệu có cho thấy Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi chính sách quản lý điều hành tỉ giá không? Tức là có hướng đến mục tiêu "thị trường hoá" hay "thả lỏng" không? Tại sao?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh tỷ giá vào cuối tháng 11 vừa qua là việc tiếp tục thực hiện một cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, như đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây.
Với điều kiện của nền kinh tế hiện nay và dự báo trong thời gian tới, như vấn đề nhập siêu, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, những biến động khó lường của kinh tế và thị trường quốc tế, và các giao dịch vốn chưa được tự do hóa, thì Ngân hàng Nhà nước chưa thể thay đổi phương thức điều hành tỷ giá so với hiện nay.
Tuy nhiên, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và kiểm soát thị trường ngoại hối không có những biến động đột biến.
Ngô Sỹ Nam - Nam 22 tuổi - Sinh vien:
Nguyên tắc cơ bản của tỷ giá là dựa trên ngang giá sức mua và ngang giá lãi suất. Việc điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước vừa rồi có dựa trên hai căn cứ này không?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước dựa trên các yếu tố về kinh tế vĩ mô, cung cầu ngoại tệ, xu hướng về kỳ vọng của thị trường, trong đó có cả những nhân tố như bạn quan tâm.
Trần Minh Hải - Nam 31 tuổi - Cán bộ ngân hàng:
Xin chào ông Nghĩa. Ông có thể cho biết, với tình hình Việt Nam hiện tại thì trong năm 2010 và tương lai tỷ giá VND/USD, lãi suất cơ bản bao nhiêu là hợp lý để có thể hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh và ổn định tình hình kinh tế Việt Nam.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, xin trả lời bạn như sau.
Hiện nay chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất đều có sự can thiệp mạnh mẽ của ngân hàng nhà nước. Vì vậy, rất khó dự đoán theo yêu cầu của bạn. Nhưng tôi nghĩ, tỷ giá và lãi suất sẽ không có biến động lớn ít nhất là đến hết quý 1/2010.
Bao nhiêu là hợp lý thì còn phụ thuộc vào tốc độ phục hồi của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Như tôi biết, huy động vốn của các ngân hàng thương mại hiện đang bị cạnh tranh gay gắt với các thị trường khác như vàng, bất động sản, chứng khoán...
Vì vậy, lãi suất cơ bản và tỷ giá hối đoái hiện nay có thể là một mức tương đối hợp lý, ít nhất là hết quý 1/2010.
Thái Văn Thành - Nam 42 tuổi - XNK:
Hiện nay các ngân hàng thương mại đều tập trung phát triển dịch vụ thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu. Xin hỏi lãnh đạo các ngân hàng, quý vị có những tư vấn, dịch vụ nào thật cụ thể để giúp doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế tối đa được các khoản vay, mua và khó mua USD như thời gian qua, để doanh nghiệp không phải "thắc thỏm" và "giật mình" mỗi lần biến động tỷ giá?
Ông Lý Xuân Hải:
Để tránh rủi ro tỷ giá, các doanh nghiệp có nguồn thu bằng loại tiền tệ nào thì hãy vay để kinh doanh bằng loại tiền tệ đó.
Ví dụ: một doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu bẳng Euro thì nên vay thu mua hàng xuất khẩu bằng Euro. Một doanh nghiệp có nhu cầu nhập hàng hoá từ Mỹ để tiêu thụ trong nước thì nên vay VND để mua ngoại tệ thanh toán ngay, không nên vay ngoại tệ.
Một điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp nên từ bỏ thói quen dùng USD là ngoại tệ duy nhất để thanh toán nhập khẩu. Điều này tạo ra thêm các chi phí không cần thiết cho nhà xuất khẩu và sẽ làm tăng giá bán. Chưa kể có rất nhiều quốc gia có chế độ kết hối bắt buộc: khi tiền là ngoại tệ bất kỳ về tài khoản của nhà xuất khẩu lập tức sẽ được chuyển đổi sang nội tệ.
Như vậy để tránh sức ép lên chỉ một loại tiền tệ là USD, các doanh nghiệp nhập khẩu nên cố gắng đàm phán với nhà xuất khẩu thanh toán bằng chính bản tệ của họ hoặc một loại tiền tệ khác USD mà họ có nhu cầu.
Và như vậy là một công đôi việc: bớt chi phí cho người bán và bớt tạo sức ép lên tỷ giá USD/VND
Để tham khảo: Việt Nam nhập khẩu chỉ khoảng 4% từ Mỹ và các quốc gia sử dụng USD, trên 70% từ các quốc gia có ngoại tệ tự do chuyển đổi, khoảng 20% từ Trung Quốc - một quốc gia đang khuyến khích sử dụng Nhân dân tệ trong thanh toán... trong khi lượng ngoại tệ mua thanh toán xuất khẩu đến 80% bằng USD.
YU - Nam 29 tuổi:
Chính phủ buộc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước. Nếu việc đó gây ra thua lỗ cho các đơn vị này thì ai sẽ chịu trách nhiệm?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương là các tổng công ty nhà nước có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu và các nguồn khác bán ngoại tệ cho ngân hàng để làm tăng lượng cung ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối của Nhà nước, cũng như cho thị trường để góp phần bình ổn thị trường ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với các tổng công ty và hệ thống ngân hàng thương mại để triển khai chủ trương này một cách hợp lý và đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Các tổng công ty sẽ không bị thiệt khi thực hiện việc bán ngoại tệ này.
Nguyen Huy - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Vào cuối năm 2008 căng thẳng lượng tiền mặt tại các hệ thống ngân hàng Việt Nam, lãi suất huy động đã đạt trên 20% và chuẩn bị đến kỳ đáo hạn, hiện nay tại các ngân hàng lượng tiền mặt cũng đang khan hiếm, điều này dẫn tới nhu cầu tiền mặt tại các ngân hàng rất lớn, vậy điều này có tác động như thế nào tới các ngân hàng?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, phần lớn tiền gửi hiện nay là tiền gửi ngắn hạn, vì vậy gánh nặng của những khoản tiền gửi có lãi suất cao trước đây chắc không còn nhiều.
Tuy nhiên, khả năng huy động của các ngân hàng thương mại hiện đang bị cạnh tranh bởi các thị trường khác như tôi đã nói, đồng thời cũng chịu tác động bởi việc suy giảm lòng tin của dân chúng và cộng đồng quốc tế vào kinh tế vĩ mô của Việt Nam (tiền gửi chủ yếu là ngắn hạn, trái phiếu chính phủ, đặc biệt là trái phiếu dài hạn bị đình trệ, xếp hạng quốc tế về kinh tế vĩ mô tụt hạng...).
Chính phủ đã biết điều đó và đang nỗ lực cải thiện thanh khoản của các ngân hàng thương mại bằng nghiệp vụ tái cấp vốn, chiết khấu của ngân hàng trung ương. Thông qua đó cải thiện thanh khoản của các doanh nghiệp. Theo phân tích của ủy ban chúng tôi thì thanh khoản của các doanh nghiệp đã cải thiện nhiều so với năm 2008. Ngân hàng cũng tương tự như vậy.
Bắt đầu từ quý 4/2009, thanh khoản đang có dấu hiệu xấu đi, nhưng không nghiêm trọng như năm ngoái và tôi tin là ngân hàng Nhà nước sẽ giải quyết được vấn đề này.
"Khả năng tiếp cận ngân hàng của người dân còn thấp"
Tạ Hữu Doanh - Nam 29 tuổi - Kiểm toán:
Với diễn biến của thị trường vừa qua chúng ta có thể thấy được lượng tiền cất trữ trong dân hiện nay còn rất lớn. Theo các chuyên gia thì để chính sách tiền tệ phát huy được hiệu quả thì chúng ta phải có những biện pháp gì để dự báo; thu hút vốn nhàn dỗi trong dân?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trước đây, tổ chức JICA của Nhật có những cuộc điều tra về cơ cấu tiền để dành của dân cư thì phần dân cư để dành thông qua tiết kiệm gửi ngân hàng thường thấp hơn để dành bằng vàng và cao hơn so với để dành bằng tiền mặt (nội tệ và ngoại tệ).
Từ mấy năm gần đây không có kết quả điều tra này nhưng tôi đoán hơn một nửa tiền để dành của dân cư là không gửi vào ngân hàng mà chủ yếu để dành bằng vàng hoặc tiền mặt, bất động sản và các tài sản khác.
Điều này cho thấy, khả năng tiếp cận ngân hàng của người dân Việt Nam còn thấp. Phần lớn công chức không có tài khoản ở ngân hàng thương mại ngoại trừ tài khoản để trả lương. Theo thống kê của chúng tôi hiện nay khoảng 2,5 người trưởng thành mới có 1 tài khoản ngân hàng, mà chủ yếu là tài khoản tiết kiệm. Rất ít tài khoản thanh toán. Điều này cho thấy nguồn tài chính trong dân cư còn rất lớn và không được sử dụng hiệu quả.
Gần đây giá vàng đang nhảy múa, xu hướng trở lại cất trữ vàng đang khá mạnh. Vì vậy, các ngân hàng thương mại cần có chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, kể cả tiền gửi và cho vay để khai thác hiệu quả nguồn lực tài chính trong nhân dân.
Tôi không ủng hộ việc khống chế cho vay tiêu dùng hiện nay. Tỷ lệ cho vay tiêu dùng ở nhiều nước là 30 -35%, còn ở Việt Nam mới khoảng dưới 5%. Thông thường cho vay tiêu dùng là cách huy động tiết kiệm tốt nhất từ dân chúng. Chính cho vay tiêu dùng đã kéo nhu cầu của tương lai về hiện tại, tạo ra sức mua cho các doanh nghiệp phát triển.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Ông Lý Xuân Hải có thể cho biết ảnh hưởng của việc căng thẳng tiền tệ trước khi ngân hàng tăng lãi suất cơ bản đến hoạt động của ACB và việc tăng lãi suất cơ bản có giúp gì ngân hàng không?
Ông Lý Xuân Hải:
Nghe có vẻ nghịch cảnh nhưng việc tăng lãi suất cơ bản, dẫn đến tăng trần lãi suất cho vay, làm cho khách hàng dễ tiếp cận đến nguồn tín dụng bằng VND hơn.
Trước đây, khi trần lãi suất là 10,5%, biên lãi suất rất hẹp nên muốn cho vay hiệu quả và tính toán giá thành cho vay theo các lý thuyết giá thành tín dụng rất cơ bản, chúng tôi phải lựa chọn khách hàng rất kỹ căn cứ thu nhập tổng thể mà họ đem lại cho ngân hàng.
Khi biên độ được mở rộng, "khung giá" trở nên rộng hơn và chúng tôi có điều kiện phục vụ được nhiều khách hàng hơn.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các cá nhân là khách hàng mục tiêu của ACB, như chúng tôi được biết, nhu cầu không chỉ là lãi suất thấp (10,5% hay 11,5%-12% không quá quan trọng khi khả năng sinh lời trên đồng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ 25%-30% và tỷ số nợ trong khoảng 1-3 lần).
Điều họ cần nhất là khả năng tiếp cận nguồn vốn đủ, thủ tục nhanh gọn, nhân viên chuyên nghiệp và có khả năng thấu hiều và tư vấn cho khách hàng, các tiện ích kèm theo khi giao dịch với ngân hàng, sự an toàn và hệ thống kênh phân phối đa dạng...
Vương Thị Sương - Nữ 31 tuổi - Tài chính:
Gửi diễn giả của ngân hàng EIB và ACB. Lãi suất cho vay trong hợp đồng của khách hàng các ông hiện nay có bị điều chỉnh lên theo mặt bằng lãi suất mới của thị trường? Với những hợp đồng vay sản xuất kinh doanh mới, các ông đã áp dụng mức lãi suất vay trần 12% chưa?
Ông Lý Xuân Hải:
Việc thay đổi lãi suất của hợp đồng tín dụng phải căn cứ các điều khoản đã được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng không thể tự động điều chỉnh lãi suất của các khế ước nhận nợ mà không căn cứ hợp đồng tín dụng hoặc thoả thuận với khách hàng.
Tuấn Hiệp - 22 tuổi - Sinh viên:
Tại sao trong khi các nước trên thế giới vẫn duy trì chính sách tiền tệ mở rộng, lãi suất vẫn ở mức thấp mà Việt Nam lại có xu hướng thắt chặt tiền tệ. Việc nâng lãi suất cơ bản vừa rồi có phải chỉ nhằm mục đích giúp đỡ các ngân hàng trong vấn đề thanh khoản? Và bản chất của việc thiếu thanh khoản nghiêm trọng là do đâu?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản vừa qua là sự thể hiện nhất quán chủ trương của Ngân hàng Nhà nướctừ đầu năm 2009 tới nay là điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng và căn cứ vào cung - cầu vốn của thị trường, nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các ngân hàng huy động vốn.
Thực tế cho thấy, việc điều chỉnh này là hợp lý và đã được thị trường chấp nhận, cùng với việc tăng tỷ giá sẽ có lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô. Thông tin mà bạn cho rằng người dân rút tiền mua vàng, gây khó khăn cho thanh khoản của ngân hàng là chưa đúng.
Thực tế là huy động vốn của các ngân hàng tiếp tục tăng lên trong tháng 11 khoảng 1%, khả năng an toàn thanh toán của các ngân hàng vẫn đảm bảo, và thị trường tiền tệ tương đối ổn định.
Hoạt động sàn vàng "chưa mang lại hiệu quả thiết thực"
Phương Thanh Trần - Nữ 29 tuổi - Nhân viên:
Các chuyên gia có thể đưa ra ý kiến làm thế nào để hạ nhiệt giá vàng trong nước? Vì nếu cứ để chạy theo giá thế giới thì sẽ biến động thị trường trong nước, gây rối loạn cả điều hành. Cơ quan quản lý có cần qui định một biên độ giá mua và bán đối với giá vàng trong nước so với giá thế giới quy đổi sang VND? Hay quy định chênh lệch giá mua - bán? Ở đây áp dụng cho cả giá vàng vật chất và giá vàng giao dịch trên sàn do sàn công bố.
Ông Trương Văn Phước:
Giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế có những mối tương quan rất chặt chẽ. Giá vàng quốc tế lên cao như hiện nay, tại thời điểm chúng ta đang trao đổi là 1.219 USD/oz, thì giá vàng trong nước cũng phải xấp xỉ 28,3 - 28,5 triệu đồng/lượng. Do đó, không thể làm hạ nhiệt giá trong nước khi giá quốc tế tăng, trừ phi giá quốc tế giảm lại.
Giá trong nước còn phụ thuộc vào tỷ giá USD/VND, dùng để tính toán quy đổi. Vừa qua, thị trường đã sử dụng tỷ giá thị trường tự do chứ không phải tỷ giá chính thức trong quy đổi nên làm cho giá vàng trong nước cao hơn mức quy đổi quốc tế từ 3 - 4 triệu đồng/lượng.
Vấn đề đặt ra hiện nay mà dư luận hết sức quan tâm là nhu cầu vàng từ hoạt động của các sàn vàng và hoạt động tín dụng, cho vay vàng của các ngân hàng thương mại, cùng với một tỷ lệ ký quỹ phù hợp khi vay vàng ra để bán.
Khi cần trả nợ do giá vàng tăng cao thì tạo ra một lực cầu cộng hưởng rất lớn như sự kiện ngày 11/11 vừa qua. Khó để quy định một biên độ mua bán hay một chênh lệch giá mua bán vì nó phụ thuộc hoàn toàn vào cung - cầu của thị trường.
Theo tôi được biết, một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng đang được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu để sớm ban hành.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi được biết Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước quản lý thống nhất thị trường vàng và sắp tới sẽ áp dụng nhiều biện pháp để chấn chỉnh thị trường. Như kiểm soát xuất nhập khẩu, các sàn vàng chống đầu cơ lũng đoạn trên thị trường này.
Cà nhân tôi cho rằng việc quản lý nhập khẩu vàng nên thực hiện thông qua chính sách thuế, có lợi cho ngân sách hơn là thông qua cấp phép nhập khẩu thường mang lại lợi ích rất lớn cho những công ty được cấp phép. Và rất có thể họ sẽ dùng lợi nhuận kiếm được từ việc hạn chế nhập khẩu để lobby giấy phép mạnh mẽ hơn.
YU - Nam 29 tuổi:
Thưa ông Bảo, có gì đảm bảo là các tổng công ty sẽ không bị thiệt khi bán lại ngoại tệ? Ý ông nói rằng là VND sẽ tăng giá so với USD trong tương lai? Hay Chính phủ sẽ đền bù cho các tổng công ty theo một cách nào khác?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn, việc mua bán sẽ được xác lập bằng những hợp đồng cụ thể để đảm bảo quyền lợi của các bên.
Nguyen Thuy Hang - Nữ 28 tuổi - Can bo:
Các ông nghĩ thế nào về cơ chế trần theo tỷ lệ 150% với lãi suất cơ bản hiện nay? Các nước trên thế giới hầu như không áp dụng vì nó mang dáng dấp hành chính, không phản ánh thực trạng cơ chế thị trường, "bó tay" các doanh nghiệp ngân hàng, vì sao Việt Nam vẫn áp dụng?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Từ năm 1998, Việt Nam đã tự do hóa lãi suất tiền gửi. Từ năm 2002 đã tự do hóa lãi suất cho vay và trong khoảng thời gian đó không ai nhắc đến trần lãi suất mặc dù nó vẫn tồn tại trong Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên, từ năm 2007 lạm phát trở lại, Quốc hội "nhớ" ra và đề nghị Ngân hàng Nhà nước áp dụng quy định này trở lại. Kể từ đó chính sách lãi suất thỏa thuận bị cáo chung. Hiện tại, vừa có trần lãi suất cho vay theo luật, vừa có trần lãi suất tiền gửi theo mệnh lệnh hành chính.
Tôi cho rằng, cần phải sớm chấm dứt các trần lãi suất nói trên để thực hiện lãi suất như trước đây. Đây là tiền đề để ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Phí Nhung - Nữ 35 tuổi - Kế toán:
Xin được hỏi các diễn giả, việc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng lãi suất cơ bản tiền VND và điều chỉnh biên độ tỷ giá VND/USD vừa qua, cùng với việc 8 ngân hàng lớn của Việt Nam cam kết đáp ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu chuyển tiền trong nước đã tác động trực tiếp tới thị trường USD tự do. Ngày hôm nay USD thị trường tự do đã giảm. Vậy còn thị trường vàng hiện nay cũng đang giảm liệu có phải từ tác động trên?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Thị trường ngoại tệ đang biến động theo chiều hướng tích cực do tác động của việc điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước và các biện pháp đồng bộ khác đang được triển khai thực hiện. Đối với thị trường vàng, giá vàng trong nước biến động theo sự lên xuống của giá vàng thế giới, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới (quy đổi theo VND) không lớn.
Trong những ngày gần đây, giá vàng trong nước không có biến động đột biến là do đã có tác động của cơ chế xuất nhập khẩu vàng, việc điều chỉnh tỷ giá, và sự ổn định tâm lý của thị trường.
Lê Thị Vân Khoa - Nữ 28 tuổi - Kế toán:
Theo tôi hiểu việc điều chỉnh lãi suất và tỷ giá sẽ tạo thuận lợi cho các ngân hàng cải thiện thanh khoản và thu hút thêm ngoại tệ. Điều đó cũng là một yếu tố có lợi cho nền kinh tế, nguồn vốn nội và ngoại tệ sẽ luân chuyển tốt hơn. Tuy nhiên phải có một độ trễ chính sách mới có tác dụng cụ thể, trong khi đó yếu tố tâm lý của thị trường thì luôn thường trực. Tôi cho rằng bên cạnh điều chỉnh chính sách cũng cần phải có những biện pháp về định hướng tâm lý thị trường, nhất là về thông tin, hay việc trấn áp các tin đồn, thông tin sai lệch. Xin được chia sẻ suy nghĩ với diễn đàn. Chúc buổi giao lưu thành công.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Điều bạn nói là đúng. Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng đã và đang cố gắng làm tốt công tác thông tin truyền thông tới người dân, doanh nghiệp và cả ra thị trường quốc tế để người dân và thị trường hiểu đúng chính sách, ủng hộ và thực hiện các hoạt động tiết kiệm, đầu tư, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần ổn định thị trường.
Thang Khung - Nam 40 tuổi - NĐT:
Nhiều người cho rằng chính sách tỷ giá và tăng lãi cơ bản tuy tốt cho nền kinh tế trong dài hạn. Nhưng chính nó cũng đã gián tiếp công nhận rằng nền kinh tế chúng ta đang đối mặt với một số bất ổn. Các chuyên gia có cho là như vậy hay không? Theo các chuyên gia thì các nhà đầu tư nên hành động như thế nào khi mà VND đang mất giá, giá cả thị trường đang tăng cao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi không nghĩ là kinh tế Việt Nam đang có sự bất ổn, tuy nhiên, có một số trục trặc do chính sách tài chính tiền tệ tạo ra. Hoặc là do những tác động của suy giảm kinh tế thế giới.
Vấn đề kinh tế vĩ mô lớn nhất hiện nay của Việt Nam chưa phải là lạm phát mà là tỷ giá hối đoái. Nếu Chính phủ tập trung nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn đề này một cách kịp thời thì kinh tế Việt Nam có thể phục hồi vững chắc.
VND mất giá và giá cả tăng cao ư? Tôi nghĩ VND có mất giá thật, điều này đã diễn ra từ lâu, nhưng do chúng ta chậm điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo thị trường nên lần này đã làm nhiều nhà đầu tư bị sốc. Còn giá cả thì theo tôi đang giảm chứ không tăng, đặc biệt là hàng lương thực thực phẩm. Năm 2008 tăng tới 32%, thì năm nay chỉ tăng 3%. Vì vậy có thể thấy lạm phát đang có chiều hướng giảm. Tuy nhiên do chính sách kích cầu thì lạm phát có thể quay lại. Nhưng theo tôi thì không lớn như bạn lo ngại.
Kinh tế Việt Nam về tổng thể vẫn là nền kinh tế tích cực, có đà phục hồi ổn định, không có bong bóng bất động sản, chứng khoán, tín dụng như Trung Quốc, đang được các nhà kinh tế quốc tế cảnh báo.
Chúc bạn có những quyết định đầu tư sáng suốt.
Phương Thanh Trần - Nữ 29 tuổi - Nhân viên:
Có ý kiến cho rằng nếu chúng ta tạo điều kiện để các sàn vàng hoạt động trong khuôn khổ pháp lý thì sẽ hạn chế được nhu cầu vàng vật chất, vì nhà đầu tư và người dân sẽ tham gia giao dịch vàng "ảo" trên sàn. Như vậy có thể hạn chế được nhập siêu. Nếu hạn chế sàn vàng hoạt động, hạn chế nhà đầu tư tham gia giao dịch vàng tại sàn trong nước, họ sẽ tham gia đầu tư tại sàn nước ngoài thông qua mở tài khoản ở nước ngoài, như vậy có thể làm chảy một lượng ngoại tệ lớn sang nước ngoài. Ý kiến của ông Bảo như nào ạ?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Những đánh giá cho thấy, hoạt động của các sàn vàng chưa mang lại hiệu quả thiết thực đối với nền kinh tế. Vì thế, Ngân hàng Nhà nướcđã có kiến nghị với Chính phủ các giải pháp về quản lý hoạt động của các sàn vàng, không để xảy ra những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội.
Việc các nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư trên các sàn vàng quốc tế phải tuân thủ các điều kiện chặt chẽ của pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài và phải được sự cho phép của các cơ quan chức năng.
Hiện nay, Nhà nước không khuyến khích hoạt động đầu tư này.
Vo Trong Khanh - Nam 30 tuổi - Nhan vien ngan hang:
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang bán ngoại tệ cho các ngân hàng để lấy tiền VND. Nếu Ngân hàng Nhà nước bán một số lưọng lớn ngoại tệ thì thị trường liên ngân hàng sẽ cực kỳ thiếu VND nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh vào dịp cuối năm và tết nguyên đán. Không biết Ngân hàng Nhà nước có chính sách hay phương thức gì để có thể khắc phục tình hình nêu trên. Hay đây là một cách thức hạn chế cung tiền và chống lạm phát?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại có mục đích chủ yếu là can thiệp để ổn định tỷ giá và đương nhiên là có hút tiền từ lưu thông về.
Đồng thời với hoạt động này, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ, và các công cụ khác để hỗ trợ thanh khoản VND cho ngân hàng thương mại ở mức hợp lý, sao cho thanh khoản thị trường được đảm bảo và kiểm soát được lãi suất thị trường.
Kim Thu - Nữ 37 tuổi - KTV:
Tôi xin hỏi các diễn giả là vì sao Việt Nam không đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán để tránh lệ thuộc vào đồng USD và có nhiều biến động và khó khăn trong điều hành? Vì sao Ngân hàng Nhà nước không quy định biên độ tỷ giá giữa VND với các đồng tiền khác?
Ông Trương Văn Phước:
Việc lệ thuộc vào đồng Đô la Mỹ hay đa dạng hóa các ngoại tệ trong thanh toán về mặt hình thức thì có khác nhau, chứ về bản chất thì là một.
Vì sao? Vì tính tự do chuyển đổi (convertibility) của các ngoại tệ mạnh.
Giả sử bạn cần xuất khẩu gạo giá trị 1 triệu USD qua thị trường châu Âu, thì về nguyên tắc bạn có thể ký hợp đồng giá trị tương đương 666.000 Euro theo tỷ giá quy đổi 1 Euro = 1.50 USD. Nếu khi thu tiền xuất khẩu về mà Euro giảm xuống còn 1.40 USD thì giá trị xuất khẩu tương đương 924.000 USD, bạn đã bị thiệt hại 76.000 USD.
Trong khi những nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp nhập khẩu chủ yếu bằng đồng USD. Vậy ai bảo hiểm biến động tỷ giá này? Đó là nói thực tế với điều kiện của thị trường Việt Nam.
Chứ còn thế giới thì đồng USD vẫn là đồng tiền chủ yếu trong các giao dịch vốn, đầu tư tài chính, thanh toán thương mại... Cho nên việc lựa chọn đồng tiền trong thanh toán còn phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái. Nhìn chung, chọn thanh toán bằng đồng USD vẫn ít rủi ro hơn.
Trước sự biến động của tỷ giá đồng Đô la Mỹ so với VND nhiều người đã từng đặt ra vấn đề là quy định trần, biên độ giữa VND với các đồng tiền khác, như ý kiến của bạn. Rất tiếc, điều này không làm được.
Lý do là vì: chẳng hạn tỷ giá Euro/VND được xác định thông qua tỷ giá Euro/USD nhân với tỷ giá USD/VND. Tỷ giá USD/VND có thể tương đối ổn định, chứ còn Euro/USD biến động từ 3% - 5% một ngày thì làm sao mà giữ cho tỷ giá Euro/VND nằm trong biên độ cho phép được.
Vả lại đề ra tỷ giá này cũng là vô nghĩa vì nó vi phạm nguyên tắc "tự do chuyển đổi" của các ngoại tệ mạnh, có quy định cũng như không.
Nguyen Thanh Tan - Nam 32 tuổi - Nhan vien:
Xin Tiến sĩ Nghĩa cho biết quan điểm của mình trong tình hình hiện tại của nền kinh tế Việt Nam thì với các điều kiện nào xẩy ra thì Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tăng thêm lãi suất cơ bản của lần gần nhất?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo tôi nghĩ khi Chính phủ chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% thì lãi suất cho vay sẽ tăng lên. Ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, doanh nghiệp vay vốn cũng dễ hơn và đương nhiên là lãi suất cho vay thực tế sẽ tăng lên.
Nhưng điều đó không có nghĩa là cần phải tăng lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, áp lực tăng lãi suất chủ yếu là từ lạm phát hoặc là từ khả năng huy động vốn của hệ thống ngân hàng và nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự báo từ 6 đến 6,5% cho năm 2010 thì áp lực này chưa lớn, it nhất là cho đến nửa đầu năm 2010.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Xin hỏi thêm ông Lý Xuân Hải: ACB có chủ trương cơ cấu lại hoạt động của mình theo hướng tạo ra thu nhập chính từ tín dụng, là loại thu nhập tương đối ổn định hơn so với các hoạt động khác như kinh doanh vàng, chứng khoán... không, mặc dù chúng tôi nhận thấy ACB rất giỏi trong việc nắm bắt các cơ hội thị trường. Chúng tôi rất ngạc nhiên về kết quả hoạt động kinh doanh chứng khoán của ACB trong quý 3, rất khiêm tốn, chỉ được vài tỷ đồng trong khi các công ty chứng khoán lại báo cáo lợi nhuận rất lớn trong thời gian này và thị trường chứng khoán cũng rất tốt trong quý 3. Ông Hải có thể cho biết tại sao không và dự kiến kết quả từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, vàng, ngoại tệ sẽ đóng góp như thế nào vào kết quả kinh doanh quý 4 của ACB?
Ông Lý Xuân Hải:
Các nguồn thu nhập chính của ACB là từ tín dụng, dịch vụ và kinh doanh liên ngân hàng (bao gồm hoạt động tiền gửi, kinh doanh trái phiếu, kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng).
Mong muốn của chúng tôi là hoạt động tín dụng sẽ chiếm không quá 55%-60% tổng tài sản để luôn có thanh khoản cao... và thu nhập từ hoạt động tín dụng, thu nhập ròng từ lãi chỉ chiếm không quá 50% tổng nguồn thu. Phải nói thêm là hoạt động tín dụng có rủi ro không nhỏ, chịu ảnh hưởng của các yếu tố vi mô lớn... nên nguồn thu nếu chỉ phụ thuộc vào tín dụng sẽ thiếu ổn định và bền vững.
Các nguồn thu từ dịch vụ sẽ ổn định hơn nên chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư để nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ của mình.
Hoạt động liên ngân hàng và kinh doanh trái phiếu nhằm 2 mục đích: đảm bảo thanh khoản và sinh lợi cho ngân hàng. Thực tế các năm qua chỉ ra rằng hoạt động kinh doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng sẽ luôn ổn định và đem lại sự vững mạnh cho ngân hàng.
Nguồn thu từ hoạt động của Trung tâm Giao dịch vàng sẽ chỉ là một phần trong các nguồn thu từ dịch vụ của ACB. Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh vàng trong và ngoài nước và các sản phẩm kèo theo sẽ luôn ổn dịnh trong điều kiện ngày hôm nay nên chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động này.
Việc điều chỉnh "thể hiện chủ trương điều hành linh hoạt"
Minh Hoàng - Nam 32 tuổi - Phân tích tài chính:
Tôi xin hỏi một câu hỏi cho ông Bảo: Việc các ông đăng đàn lên và tuyên bố sẽ giữ nguyên mức lãi suất cơ bản cho đến hết năm 2009 rồi lại 'đột ngột' tăng mức lãi suất cơ bản này nên liệu có làm cho thị trường tiền tệ ổn định hay không? Nhiều cá nhân cũng như người dân cũng đã gửi tiền tiết kiệm với một mức lãi suất thấp, đến nay mức lãi suất này được tăng lên, thiệt thòi lại thiệt về người dân. Vậy, theo các ông việc can thiệp một cách 'không nhẹ nhàng' vào thị trường và 'gây sốc' như vậy có giúp thị trường ổn định được không?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Với các giải pháp kích thích kinh tế nhằm ngăn chặn suy giảm tăng trưởng của Chính phủ được thực hiện từ đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước có chủ trương ổn định lãi suất cơ bản trong năm 2009.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta đã hội nhập, có độ mở lớn và chịu tác động tổng hợp của các yếu tố của cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Từ giữa tháng 11, các giải pháp kích thích kinh tế, bên cạnh những tác động tích cực đã nảy sinh những tác động chưa tích cực, như sức ép làm tăng tín dụng, tỷ giá ở mức cao và tâm lý thị trường không thuận lợi; giá vàng và một số nguyên nhiên liệu cơ bản có xu hướng tăng, tác động không thuận lợi đối với thị trường tiền tệ trong nước.
Trước tình hình đó, theo chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng đồng thời cả tỷ giá và lãi suất. Sự phản ứng tích cực của thị trường trong những ngày gần đây đã cho thấy sự điều chỉnh này là hợp lý.
Nếu không điều chỉnh hoặc điều chỉnh chậm hơn, thì thị trường sẽ diễn biến phức tạp và không ngoại trừ hậu quả xấu xảy ra. Khi đó, lợi ích của nền kinh tế, của các nhà đầu tư và cộng đồng dân cư không được đảm bảo.
Như thế, việc điều chỉnh tăng lãi suất và tỷ giá vào cuối tháng 11 là sự thể hiện nhất quán chủ trương điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ trên cơ sở các điều kiện thực tế, vì lợi ích chung.
Thúy Phạm - Nữ 28 tuổi - Chuyên viên phân tích thị trường:
Trong thời gian qua, rủi ro về mặt chính sách của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt tăng cao và có khả năng khiến nhu cầu đầu tư vào thị trường Việt Nam của họ giảm mạnh. Thông tin về Việt Nam giảm giá đồng tiền đang lan tỏa trên các kênh thông tin của thế giới, vậy Chính phủ Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục đưa ra biện pháp nào để bình ổn thị trường, khôi phục lại lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, tôi chia sẻ với bạn nhận xét này. Bằng chứng là xếp hạng cuả Việt Nam về kinh tế vĩ mô có sự sụt giảm. Tuy nhiên các nhà đầu tư nước ngoài thường nhìn vào triển vọng trung hạn, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn.
Các nhà đầu tư cũng đã đưa ra nhiều kiến nghị rất đáng tham khảo. Như, điều chỉnh lãi suất giữa VND và ngoại tệ một cách hợp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thủ tục tài chính để giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, giảm thâm hụt thương mại, cho phép cho vay ngoại tệ với những nhà xuất khẩu, mở rộng cho vay tiêu dùng...
Chính phủ đã và đang nghiên cứu để áp dụng các biện pháp nói trên một cách đồng bộ, phù hợp. Tôi cho rằng trong điều kiện hiện nay thì Chính phủ có khả năng làm được điều đó.
Chúc bạn sức khỏe.
"Khi bạn uống thuốc phòng bệnh thì có nghĩa là bệnh chưa đến"
Nguyễn Cao Anh - Nam 34 tuổi - Giảng viên:
Xin ông Bảo giải thích 2 chính sách: - Tháng 3/2007, Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách đã rút lượng tiền lưu thông 20.300 tỷ - Tháng 11/2009, Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Trân trọng.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn.
Việc phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ VND vào tháng 1/2008 là giải pháp phù hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát.
Còn giải pháp điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản 1% vào cuối tháng 11 vừa qua là phù hợp với chủ trường điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng nhằm kiểm soát tín dụng ở mức hợp lý, góp phần cân bằng cung cầu vốn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô.
Nguyễn Vĩnh Đan - Nam 35 tuổi - Ngân hàng:
Thưa ông Nghĩa, ông có nghĩ rằng chúng ta chỉ cần 8 đến 10 ngân hàng là đủ hay không? Hiện nay, có quá nhiều ngân hàng, họ huy động vốn và cho vay vô tội vạ làm cho Ngân hàng Nhà nước cứ phải chạy theo họ. Họ chính là một trong những tấc nhân chính gây nên bất ổn trong chính sách lãi suất hiện nay? Ngân hàng Nhà nước có thể tuyên bố, là tiền gởi ở các tổ chức tín dụng chỉ đươc bảo đảm tối đa như được bảo hiểm, như vây sẽ lành mạnh hoá các hoạt động huy động vốn của các ngân hàng nhỏ khác, vì người gởi tiền sẽ suy nghĩ hết sức cẩn trọng khi bỏ tiền vào một ngân hàng không tên tuổi? Làm như vậy sẽ làm cho hoạt động ngân hàng được lành mạnh hơn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi không nghĩ như bạn.
Vấn đề không phải là số lượng các ngân hàng mà là chính sách hợp lý và giám sát chặt chẽ. Một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ của Việt Nam thường chạy theo lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông nên rất ít quan tâm đến những tài sản đảm bảo thanh khoản vững chắc cho hoạt động của họ.
Ví dụ họ thiếu các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc hay tín phiếu của ngân hàng Nhà nước để tham gia trực tiếp vào thị trường mở hoặc cửa sổ chiết khấu, ngoại trừ một số ngân hàng vừa qua đã mua vét trái phiếu Chính phủ bán tháo của các nhà đầu tư nước ngoài để kiếm lời.
Tôi được biết ở nhiều nước có số lượng ngân hàng rất lớn, Mỹ có trên 6 nghìn, Đức hơn 2.500, nhiều nước bình quân 1 nghìn dân có 1 chi nhánh ngân hàng. Việt Nam hiện nay bình quân 17 nghìn dân có 1 chi nhánh ngân hàng, thấp nhất là ở Tp.HCM, 8 nghìn dân có 1 chi nhánh.
Tuy nhiên, số lượng ngân hàng của Việt Nam có thể là lớn so với khả năng giám sát và quản lý của chính các ngân hàng thương mại và của các cơ quan hữu quan khác. Vì vậy, cần cho phép mua lại, sáp nhập các ngân hàng để xóa bỏ những ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, đồng thời tăng cường giám sát các ngân hàng này theo các chuẩn mực an toàn quốc tế.
Nguyễn Ngọc Phương - Nam 50 tuổi - Cán bộ:
Xin chào các quý vị. Tôi có một câu hỏi xin gửi đến quý vị như sau: Tỷ giá chịu nhiều tác động, trong điều kiện kinh tế hiện nay theo các vị thì mức tỷ giá nào giữa VND và USD là hợp lý?
Ông Trương Văn Phước:
Chào bạn,
Cứ xem tỷ giá như là một biến số (X). Thì biến số này nhằm để đi tìm lời giải cho bài toán tối ưu, trong đó có các hàm số thể hiện sự ràng buộc đối với tỷ giá.
Giải bài toán này không khó. Khó khăn hơn rất nhiều đó là xây dựng các quan hệ liên thuộc giữa các biến số khác trong bài toán tối ưu, cũng như các mong muốn mà những nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô thể hiện trong các ràng buộc đó là những mong muốn gì. Đó là về mặt lý thuyết.
Còn trong thực tế, có hai cách tiếp cận để có thể dự báo xu hướng của tỷ giá hối đoái:
- Dựa trên cung - cầu, nếu cầu luôn lớn hơn cung thì áp lực mất giá đông nội tệ là điều dễ nhìn thấy (nhưng cũng cần lưu ý các chính sách can thiệp tạo cung của các ngân hàng trung ương);
- Dựa trên các yếu tố cơ bản của nền kinh tế, nếu chênh lệch lạm phát của Việt Nam với các nước mà dương (tức CPI của Việt Nam lớn hơn) thì VND có xu hướng mất giá với một mức độ tương quan với chênh lệch này. Ngoài ra, nếu các đồng tiền của các đối tác quốc gia mà lên giá với Đô la Mỹ thì VND cũng được hưởng lợi theo xu hướng lên giá này.
Nhưng cũng cần phải lựa chọn một năm cơ sở để làm nền tảng cho sự tính toán mức tỷ giá hợp lý. Còn năm nào là năm cơ sở lại là một bài toán khác nữa...
Nhưng ý kiến riêng của tôi thì cho rằng, với chênh lệch lãi suất khá lớn giữa VND và USD hiện nay xấp xỉ 10%/năm có lợi cho VND, lạm phát ở mức không cao, sự suy yếu nặng nề của đồng USD trên thị trường quốc tế thì mức tỷ giá hiện nay là tương đối phù hợp, ít nhất là trong vòng 6 tháng tới. Tất nhiên sau đó còn phải xem xét thêm các yếu tố của nền kinh tế thì mới "đoán" ra được phần nào.
Nguyễn Thanh Phương - Nam 20 tuổi - Sinh viên:
Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010. Cho em hỏi nếu nói như vậy thì tại nước ta lạm phát có dấu hiệu quay trở lại đúng không?
Ông Trương Văn Phước:
Khi bạn uống thuốc phòng bệnh thì có nghĩa là bệnh chưa đến. Cũng có thể đến mà cũng có thể không. Giả sử có đến thì liều lượng nặng nhẹ còn tùy. Đó mới là vấn đề khó khăn của nghề y khoa bác sĩ. Nhưng khi bác sĩ cho toa thì ít ra họ cũng dựa trên một vài triệu chứng lâm sàng nào đó.
Chính sách hỗ trợ lãi suất vừa qua đã giúp các doanh nghiệp, người dân thuộc các đối tượng được thụ hưởng, được tiếp cận vốn tín dụng dễ hơn theo nghĩa là vay vốn với lãi suất thấp hơn (chứ không phải các ngân hàng thương mại hạ thấp điều kiện tín dụng) đã làm cho tăng trưởng tín dụng cao hơn. Các chính sách về đầu tư của Nhà nước cũng được mở rộng hơn.
Nhờ đó mà Việt Nam mới ngăn ngừa được suy giảm kinh tế. Đây là những biểu hiện để có thể suy đoán rằng lạm phát cao hơn có thể trở lại. Nhưng thực ra lạm phát ở mức độ nào còn phụ thuộc ở nhiều nhân tố khác nữa. Đặc biệt mặt bằng giá quốc tế ngày nay đã có tác động khá lớn đối với lạm phát của các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, mà năm nay mặt bằng giá đó là khá thấp so với năm 2008.
Dĩ nhiên, lý thuyết kinh tế còn nói đến nhiều nguyên nhân khác... nhưng có thể nói việc đề ra các chính sách vĩ mô thận trọng và sự ứng xử linh hoạt trước các chính sách đó mới là điều quan trọng nhất.
Ý kiến rất riêng của tôi là nếu có những chính sách rất phù hợp thì việc kiểm soát lạm phát trong năm 2010 là điều hoàn toàn có thể làm được, trừ phi thị trường thế giới có những biến động rất mạnh để tạo ra những mặt bằng giá cao hơn so với năm 2008 thì các chính sách vĩ mô phải được xem xét, hiệu chỉnh kịp thời.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Câu hỏi cho ông Lý Xuân Hải: Theo ông lãi suất cơ bản tăng lên 8% đã đủ để đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng chưa? Liệu từ nay đến quý 1/2010, Ngân hàng Nhà nước có phải tiếp tục tăng lãi suất cơ bản vì lý do tương tự như lần tăng này. Tương tự là tỷ giá VND/USD, đã đủ để đảm bảo không có các đợt giảm giá tiếp theo chưa?
Ông Lý Xuân Hải:
1. Thanh khoản của thị trường không phụ thuộc trực tiếp vào lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu, chính sách tiền tệnới lỏng hay thắt chặt, quy mô hoạt động thị trường mở, lãi suất, kỳ vọng của thị trường...
2. Ngày hôm nay, việc nâng lãi suất cơ bản chính là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện thắt lại chính sách tiền tệ trên thực tế để ngăn ngừa lạm phát. Điều này sẽ làm các ngân hàng thương mại phải cẩn trọng hơn trong việc sử dụng vốn, hạ tốc độ tăng trưởng tín dụng.
3. Trong điều kiện có một sốyêu cầumang tính nghiêm ngặt hơn trong cấu trúc huyđộng và sử dụng vốn như: không dùng vốn liên ngân hàng để cho vay, hạn chế và thắt chặt việc sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn... chúng tôi cho rằng việc huy động thời gian qua có hơi nóng là vì một số các ngân hàng thương mại đang đẩy mạnh huy động để đáp ứng các yêu cầu này. Khi các yêu cầu đã được đáp ứng, sức "nóng" sẽ giảm bớt phần nào.
4. Trong điều kiện hiện nay chúng tôi cho rằng thị trường sẽ không bị thiếu thanh khoản do Ngân hàng Nhà nước đủ các công cụ vàkinh nghiệm để một mặt đảm bảo thanh khoản cho thị trường, mặt kháckhông làm phương hại đến các mục tiêu dài hạ mà chính sách tiền tệ đang nhắm đến.
5. Công cụ chính sách tiền tệ (bao gồm lãi suất và tỷ giá) thường có giá trị trong ngắn hạn trong khi nhắm đến mục tiêu dài hạn là ổn định giá cả (hạn chế lạm phát) và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế (tạo công ăn việc làm). Do vậy có thể khẳng định trong thời gian tới lãi suất sẽ không tăng hơn nhiều so với hiện nay, tỷ giá sẽ ít có biến động, thị trường sẽ bình ổn.
Đó là những điều chỉnh mới của Ngân hàng Nhà nước, với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những cách hiểu khác nhau về mục đích, tác động của những điều chỉnh trên.
Nhằm tạo diễn đàn phân tích, định hướng thông tin xoay quanh những điều chỉnh trên, từ 14h - 16h30 ngày 3/12/2009, VnEconomy đã tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Trước biến động lãi suất và tỷ giá” giữa đại diện Ngân hàng Nhà nước, một số chuyên gia, lãnh đạo ngân hàng thương mại với bạn đọc, nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Buổi giao lưu này cũng là diễn đàn chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm và dự báo của các diễn giả về xu hướng của lãi suất và tỷ giá trong năm 2010, giúp nhà đầu tư, doanh nghiệp nắm bắt thông tin, tạo cơ sở định hình những ứng xử phù hợp trong sản xuất, kinh doanh và đầu tư.
|
|
|
|
|
Ông Nguyễn Ngọc Bảo | Ông Lê Xuân Nghĩa | Ông Vũ Thành Tự Anh | Ông Lý Xuân Hải | Ông Trương Văn Phước |
Diễn giả của buổi giao lưu gồm:
- Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
- Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fullbright
- Ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB)
- Ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
Sau đây, VnEconomy xin giới thiệu nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến:
Lạm phát năm tới "cao nhất chỉ 8%"
Hung Dai - Nam 28 tuổi - Nhà đầu tư:
Nhiều ý kiến cho rằng việc tăng lãi suất cơ bản sẽ ảnh hưởng xấu đến kinh tế trong nước. Vậy theo các chuyên gia thì việc tăng lãi suất ảnh hưởng xấu - tốt như thế nào đến kinh tế quốc gia trung và dài hạn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi xin được trả lời câu hỏi của bạn như sau:
Kinh tế phục hồi thì tất yếu lãi suất tăng lên, nhu cầu đầu tư tăng lên mà nguồn vốn hữu hạn nên lãi suất tăng là đương nhiên.
Nhưng nếu tăng cao quá thì sẽ hạn chế đầu tư của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng.
Chính phủ đang chủ trương điều chỉnh lãi suất theo đà phục hồi kinh tế từ từ, không gây sốc cho doanh nghiệp.
Để lãi suất ổn định thì lạm phát phải ổn định. Các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng doanh nghiệp Việt Nam đang chịu mức lãi suất cao, có lúc lên tới 21%, so với nhiều nước chỉ 3 - 6%.
Vì vậy mục tiêu lâu dài của Chính phủ là duy trì lãi suất hợp lý và tương đối ổn định để đảm bảo sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nguyen Phu Thien - Nam 33 tuổi - Kế toán:
Tôi đọc trên VnEconomy thấy có thông tin 8 ngân hàng lớn cam kết bán đủ ngoại tệ và kịp thời cho cá nhân và doanh nghiệp. Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng, tại sao đến bây giờ mới có cam kết đó, tại sao chỉ có 8 ngân hàng mà không phải là tất cả?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Tuy nhiên, từ tháng 11 tới nay, Ngân hàng Nhà nướccó điều chỉnh tăng tỷ giá, và để cho việc điều chỉnh này sớm tác động một cách tích cực nhất đối với thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có việc yêu cầu các ngân hàng chiếm thị phần lớn trên thị trường ngoại hối vừa làm cầu nối, vừa thực thi đúng các chính sách, tạo điều kiện cho thị trường được ổn định và đạt được các mục tiêu của việc điều chỉnh tỷ giá.
Như thế, đối với các ngân hàng này, họ không được ưu ái một chính sách ngoại lệ nào về tỷ giá và ngoại hối, mà đây chỉ là vấn đề trách nhiệm, họ phải thực hiện đúng các quy định pháp luật và chủ trương của Ngân hàng Nhà nước, vì lợi ích chung của nền kinh tế cũng như từng ngân hàng thương mại.
Ông Lý Xuân Hải:
Theo chúng tôi hiểu, Ngân hàng Nhà nước muốn lựa chọn các ngân hàng lớn, thị phần rộng và tầm ảnh hưởng cao để có thể triển khai nhanh chương trình hỗ trợ ngoại tệ cho doanh nghiệp có nhu cầu mua USD để nhập khẩu, nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Đây là việc làm lớn, đòi hỏi phải triển khai nhanh.
Về phần mình, chúng tôi sẽ cố gắng tự cân đối nguồn ngoại tệ và sẽ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ khi thiếu hụt.
Lê Thanh Tâm - Nam 36 tuổi - Kiểm toán:
Tôi thấy thời gian gần đây Ngân hàng Nhà nước có phản ứng khá nhanh và tích cực trong việc phản ứng với các tin đồn, giúp nhà đầu tư như chúng tôi hạn chế được rủi ro. Nhưng dù sao thì khi tin đồn xuất hiện và có thể đã gây tác động mới có phản ứng, phản ứng của cơ quan nhà nước phải đi sau. Vậy thì có cách nào để trấn áp thật mạnh, phát hiện và xử lý thật nghiêm những trường hợp tung tin đồn thất thiệt như thế để bảo vệ thị trường và nhà đầu tư? Tôi mong Ngân hàng Nhà nước sớm hợp tác chặt chẽ với cơ quan công an để xử lý mạnh những trường hợp đó. Xin cảm ơn các diễn giả và chúc sức khỏe.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Trước hết, Ngân hàng Nhà nước vào đầu năm hoặc những thời điểm như cuối quý thường công bố các chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ. Thường thì những chính sách đó ổn định và Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng thực hiện theo các chính sách đã công bố để tạo lòng tin đối với công chúng và doanh nghiệp.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước có mở các trang web trên mạng điện tử và thiết lập các đường dây nóng để tạo điều kiện cho người dân có thắc mắc thì có thể liên hệ trực tiếp.
Về phía doanh nghiệp và người dân, theo tôi, nên có niềm tin đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, ủng hộ và cùng thực hiện các chính sách đó. Đồng thời, khi có tin đồn bất thường, có thể liên hệ qua đường dây nóng, hoặc liên hệ với Ngân hàng Nhà nước tại các tỉnh và thành phố để thông tin về vấn đề đó và nhận câu trả lời chính xác về chủ trương và chính sách.
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, người dân và doanh nghiệp cũng nên thực hiện theo các chính sách của cơ quan chức năng và Ngân hàng Nhà nước.
Nếu vậy, các tin đồn sẽ không còn chỗ đứng. Trong trường hợp xảy ra tin đồn, người dân và doanh nghiệp nên tìm đến các phương tiện thông tin đại chúng để theo dõi phản hồi của Ngân hàng Nhà nước trước tin đồn đó.
Tôi cũng đề nghị các doanh nhân nên tiếp cận với các kiến thức về tài chính, tiền tệ và ngân hàng để chia sẻ về mặt nhận thức, kiến thức và hành động trong việc thực thi chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.
Ly Phuoc An - Nam 41 tuổi - Quan ly:
Lãi suất năm 2010 có khả năng tái diễn đà tăng như năm 2008 không, thưa các ông?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo tôi thì không có khả năng đó. Vì, lạm phát của Việt Nam năm 2009 chỉ khoảng 6%. Năm tới có thể cao nhất chỉ 8%.
Trên thực tế mặc dù tín dụng tăng khá cao (11 tháng là 36%) nhưng đây không phải là yếu tố trực tiếp tạo ra lạm phát. Mà yếu tố trực tiếp là cung ứng tiền tệ. Tỷ lệ này năm 2009 được duy trì ở mức 25%, là mức khá hợp lý, thấp hơn nhiều so với 2007 là 36%, chỉ cao hơn chút ít so với năm 2008 là năm thắt chặt tiền tệ.
Hơn nữa, Ngân hàng Thế giới cũng dự báo mặt bằng giá thế giới năm 2010 chỉ tăng 1,5% so với năm 2009. Nhóm hàng dự báo có tăng giá chút ít là lương thực thực phẩm. Nhìn từ hai phía, lạm phát cầu kéo do cung tiền hoặc lạm phát chi phí đẩy do giá thế giới đều thấp. Đó là sự khác biệt so với năm 2008.
Mặc dù nhiều chuyên gia cảnh báo mạnh mẽ về nguy cơ lạm phát nhưng chúng ta phải thấy rằng để phục hồi hoàn toàn nền kinh tế thì thế giới phải mất ít nhất 3 - 4 năm. Trong khoảng thời gian đó, giá cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng khó có thể có đột biến.
Cũng cần phải lưu ý, cho đến nay giá dầu mỏ tăng lên chủ yếu là do đồng Đô la mất giá. Ảnh hưởng của phục hồi kinh tế toàn cầu vào giá dầu mỏ rất ít. Tôi cho rằng giá dầu mỏ vẫn biến động nhẹ trong năm 2010.
Đặng Văn Hiện - Nam 58 tuổi - Công chức:
Đối với doanh nghiệp FDI, điều mà chúng tôi quan tâm nhất là lãi suất và tỷ giá. Nhìn chung, các phương án kinh doanh hàng năm của chúng tôi đều phải tính toán tới rất nhiều nhân tố, trong đó then chốt nhất là sự ổn định của nền kinh tế. Trong ổn định kinh tế, ổn định trong tỷ giá và lãi suất là vô cùng quan trọng. Trong gần 2 năm qua, sự biến động về lãi suất theo hướng VND mất giá, khó mua đô la Mỹ tại các ngân hàng thương mại,.... đã trở thành những trở ngại nghiêm trọng cho việc hình thành các kế hoạch mở rộng kinh doanh hoặc tham gia đầu tư vào các dự án mới. Tôi muốn xin ý kiến của các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách rằng, trong năm 2010 sắp tới, sự ổn định của thị trường ngoại tệ (tỷ giá và nguồn cung), và lãi suất tín dụng sẽ được dự báo ra sao?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Năm 2010, Quốc hội và Chính phủ có chủ trương và mục tiêu là phục hồi tăng trưởng kinh tế, GDP tăng 6,5%, kiềm chế lạm phát ở mức dưới 7%, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Bên cạnh đó, dự báo kinh tế thế giới năm tới sẽ có nhiều thời cơ, thuận lợi và cả những thách thức khó lường tác động tới kinh tế Việt Nam.
Bởi vậy, năm 2010, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm thực hiện các mục tiêu về kinh tế, xã hội.
Trong đó, về lãi suất và tỷ giá sẽ được điều hành theo hướng tương đối ổn định và hài hòa với các cân đối kinh tế, nguồn lực kinh tế và các mục tiêu được đặt ra.
Việc điều hành lãi suất sẽ được cân bằng về mặt lợi ích giữa người gửi tiền, người cho vay và ngân hàng thương mại, sao cho các ngân hàng thương mại sẽ huy động được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế cũng như từ nước ngoài để mở rộng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả.
Về tỷ giá, sẽ được điều hành biến động một cách hợp lý để phù hợp với diễn biến của lạm phát, cung cầu ngoại tệ trên thị trường, nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, thu hút đầu tư nước ngoài, và không tác động xấu tới lạm phát.
Phạm Tuấn Anh - Nam 27 tuổi - Nhà đầu tư:
Về thông tin tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% của Ngân hàng Nhà nước và chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn đúng hạn vào 31/12/09 của Chính phủ. Xét trong ngắn và trung dài hạn, ngành ngân hàng sẽ được lợi hay bất lợi gì từ 2 thông tin trên?
Ông Trương Văn Phước:
Việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào 31/12/2009 nằm trong kế hoạch đã định sẵn của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Đương nhiên hỗ trợ lãi suất chỉ nên tồn tại trong một giai đoạn đủ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiết giảm chi phí, vượt qua khó khăn, cùng cả nền kinh tế ngăn chặn sự suy giảm.
Các ngân hàng thương mại vừa qua đã thực hiện tốt vai trò đưa sự hỗ trợ này đến với các cá nhân, doanh nghiệp thuộc diện đối tượng được thụ hưởng. Các cá nhân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn thì ngân hàng thương mại cũng nhờ đó mà vượt qua khó khăn của chính mình, vì thực ra vốn tín dụng ngân hàng cho cá nhân và doanh nghiệp vẫn là nguồn vốn chủ đạo cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. Họ vay vốn ngân hàng mà gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì ngân hàng cũng khó khăn theo.
Việc tăng lãi suất cơ bản đầu tháng 12 vừa qua cũng thể hiện các yêu cầu của thị trường. Huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế vẫn còn thấp hơn mức tăng vốn tín dụng do yêu cầu đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Trong cơ chế lãi suất tín dụng hiện nay thì các ngân hàng thương mại sử dụng lãi suất cơ bản làm nền và thiết lập trần cho vay gấp 1,5 lần lãi suất cơ bản.
Theo quy luật cung - cầu thì lãi suất với tư cách là một loại giá cũng phải tăng lên khi cầu lớn hơn cung. Các ngân hàng thương mại thiết lập một mặt bằng lãi suất cho vay mới cao hơn thì chắc hẳn cũng xác lập một mặt bằng lãi suất huy động phù hợp. Tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất hiện nay là rất thấp, nếu lãi suất huy động tăng lên thì cũng ít thôi, vì nó đụng chạm đến biên lợi nhuận của ngân hàng.
"Không tin tưởng việc cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do"
Trần Hải Nam - Nam 30 tuổi - Nhân viên tài chính:
Theo ông Lê Xuân Nghĩa, liệu có tác động ngược (tiêu cực) của việc giảm giá VND so với USD không? Khi mà hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam không cân xứng (xuất khẩu nông sản, dệt may… nhập khẩu xăng dầu, nguyên vật liệu cho sản xuất...). Khi đó VND giảm không tăng được yếu tố cạnh tranh của Việt Nam cũng như không giảm được nhập siêu mà ngược lại làm giảm tốc độ tăng trưởng của Việt Nam?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tỷ giá hối đoái là giá cả vĩ mô, nó ảnh hưởng rất sâu rộng đến hệ thống tài chính và kinh tế. Nếu VND giảm giá thì có thể tác động tích cực đến xuất khẩu và đến thâm hụt thương mại, nhưng cũng có thể tác động tiêu cực đến nhập khẩu cũng như nợ nước ngoài của quốc gia cũng như của doanh nghiệp.
Tất nhiên, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vẫn là mục tiêu quyết định. Bởi vì, nó là nguồn để cân bằng cán cân vãng lai và trả nợ của Việt Nam. Ngoài ra tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng nhất định đến lạm phát.
Theo tính toán của chúng tôi nếu tỷ giá hối đoái tăng 10% về ngắn hạn sẽ làm cho lạm phát tăng thêm 1,3% và dài hạn thì có thể tăng thêm 7%. Vì vậy Chính phủ đã cố gắng ổn định tỷ giá hối đoái trong khả năng có thể. Nhưng theo tôi thì vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tỷ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường.
Lê Út - Nữ 29 tuổi - Kinh doanh:
Tôi là nhà đầu tư, theo tôi biết hiện nay ACB là cổ phiếu đã hết “room” cho người nước ngoài. Vậy xin hỏi ông Hải, tại sao ACB không làm cách nào đó để hở “room” để tạo hấp dẫn hơn trên sàn niêm yết, như trường hợp của Eximbank? Nhân tiện, xin hỏi ông Phước, vì sao nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua vào cổ phiếu EIB nhiều như vậy kể từ ngày niêm yết đến nay? Xin cảm ơn hai ông.
Ông Trương Văn Phước:
Có lẽ nhà đầu tư nước ngoài đã xem xét một cách toàn diện hoạt động của Eximbank từ quy mô vốn chủ sở hữu cho đến tổng tài sản, một quá trình ra đời và phát triển 20 năm cộng với những chiến lược trung và dài hạn, nên có một niềm tin mạnh mẽ vào kết quả kinh doanh, cổ tức trong tương lai.
Chính điều này có thể giải thích vì sao họ mua cổ phiếu Eximbank nhiều như thế.
Ông Lý Xuân Hải:
Thứ nhất, khi tăng vốn ACB luôn dành quyền ưu tiên cho các cổ đông hiện hữu, bao gồm các cổ đông nước ngoài. Trong hoạt động này ACB không hề phân biệt cổ đông là nước ngoài hay trong nước. Do tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài tai ACB đã đạt 30% và họ luôn sử dụng quyền nâng vốn của mình, nên hiện nay không có điều kiện để các cổ đông nước ngoài mới mua cổ phiếu của ACB từ các cổ đông trong nước.
Thứ hai, giả sử có room cho cổ đông nước ngoài mua cổ phiếu ACB thì chúng tôi tin rằng room sẽ được các nhà đầu tư nước ngoài tận dụng rất nhanh và sẽ tác động đến giá cổ phiếu nhưng chỉ trong ngắn hạn. Vì vậy, chúng tôi không cho rằng việc mở room cho các cổ đông nước ngoài sẽ làm cho cổ phiếu ACB trở nên hấp dẫn hơn trong dài hạn.
Thứ ba, Hội đồng Quản trị và Ban điều hành ACB luôn cố gắng xây dựng ACB trở thành mộtđịnh chếvới những giá trị mang tính lâu dài, ổn định và bền vững. Vì vậy chúng tôi luôn luôn xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách hoạt động của ngân hàng nhằm tạo dựng giá trị các khoản đầu tư của cổ đông luôn tăng trưởng nhanh, bền vững, rủi ro thấp... để mọi cổ đông tại mọi thời điểm đều cảm thấy hài lòng dù họ là người mua hay bán cổ phiếu ACB.
Chu Giang - Nam 30 tuổi - PV:
Xin hỏi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và các diễn giả, tại các ngân hàng thiếu ngoại tệ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ vẫn không giảm? Thứ hai, xin hỏi, giả sử tỷ lệ dự trữ ngoại tệ các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống hiện là 7% giảm xuống 5%, các kỳ hạn trên 12 tháng từ 5% giảm xuống 3% thị lượng ngoại tệ "dôi” ra của hệ thông sẽ khoảng bao nhiêu, tại ACB và Eximbank sẽ có thêm khoảng bao nhiêu? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lý Xuân Hải:
Dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng với các khoản huy động tiết kiệm và là công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng huy động bằng ngoại tệ thì phải có nghĩa vụ chi trả người gửi bằng ngoại tệ, nên ngân hàng chỉ có thể sử dụng ngoại tệ này cho vay, gửi liên ngân hàng, đầu tư vào các công cụ tài chính như trái phiếu bằng ngoại tệ. Vì thế không thể dùng ngoại tệ huy động để bán cho khách hàng được.
Nguồn ngoại tệ dư ra khi giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 7% xuống 5% (dưới 12 tháng) và từ 5% xuống 3% (trên 12 tháng) vào khoảng 25 triệu USD và chỉ có thể dùng để cho vay, đầu tư như đã nói ở trên.
Trong khi đó, ngoại tệ bán cho doanh nghiệp là nguồn ngoại tệ mà các ngân hàng mua được từ khách hàng, thị trường liên ngân hàng và từ Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng không thể dùng nguồn ngoại tệ "dôi dư" như đã nói ở trên để bán cho khách hàng.
Nguyễn Văn Thắng - Nam 33 tuổi - Kinh doanh:
Theo các diễn giả, Ngân hàng Nhà nước cần làm gì để các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không phải cộng thêm 600 - 800 đồng/USD so với tỷ giá niêm yết chính thức? Liệu có khả năng kết hối, cấm kinh doanh ngoại tệ tại thị trường tự do? Lạm phát sẽ quay trở lại vào năm 2010 là rất lớn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi.
Những năm trước đây chúng ta đã làm được cái điều mà tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do chênh lệch không đáng kể. Nhờ lạm phát thấp, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư. Mỗi năm VND chỉ giảm giá 1%.
Vài năm gần đây mức chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa hai thị trường ngày càng lớn và kéo dài nhất trong vòng 15 năm qua. Nguyên nhân là do lạm phát cao, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay. Ngoài ra cũng do cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái không lih hoạt và chính sách lãi suất giữa VND và USD chưa hợp lý.
Ví dụ, lãi suất cho vay VND được tài trợ 4%, trong khi cho vay ngoại tệ không được tài trợ, điều này dẫn đến một số lượng lớn ngoại tệ bị đẩy ra khỏi lưu thông trở thành phương tiện cất trữ, găm giữ chờ tỷ giá lên.
Do đó, mục tiêu quan trọng nhất là phải kiểm soát được lạm phát và điều chỉnh linh hoạt tỷ giá hối đoái. Tôi không tin tưởng vào việc cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do. Vì thị trường chính thức chưa thay thế được nó. Còn kết hối là biện pháp bất đắc dĩ.
Dũng - Nam 30 tuổi - Kinh doanh:
Biến động tỷ giá, nhìn bề nổi luôn xuất phát từ thị trường tự do (thị trường chợ đen). Tại sao không thể ngăn chặn thị trường này? Mọi giao dịch cả cá nhân và doanh nghiệp đều phải qua ngân hàng. Khi đó, tỷ giá ngân hàng luôn tốt nhất và nhà nước sẽ kiểm soát được đầy đủ các luồng ngoại tệ, giảm dần việc thanh toán thông qua USD. Có thể khó, nhưng quan trọng là có muốn làm hay không (hay lo ngại va chạm lợi ích của một thiểu số nhỏ để ảnh hưởng lớn cả thị trường).
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Nền kinh tế nước ta còn có nguy cơ về lạm phát và nhập siêu, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư trong nhiều năm gần đây chủ yếu dựa vào thặng dư cán cân vốn. Chính vì vậy, nhièu người dân có tài sản bằng tiền thường dự trữ và gửi ngân hàng bằng ngoại tệ.
Bên cạnh đó, nguồn ngoại tệ vào Việt Nam đi qua rất nhiều kênh, trong đó có kiều hối (hàng năm từ 6-8 tỷ USD) và các nguồn thu nhập khác bằng tiền mặt là ngoại tệ, một bộ phận được gửi vào ngân hàng, còn lại được lưu thông trên thị trường tự do. Nếu nền kinh tế gặp khó khăn và có những dấu hiệu không ổn định thì lượng ngoại tệ lưu thông trên thị trường tự do tăng lên.
Cùng với đó là thói quen đã được chấp nhận kéo dài trong nhiều năm qua là người dân có thể thanh toán trực tiếp bằng USD, vàng hoặc ngoại tệ khác trong các hoạt động như mua nhà, phương tiện đi lại, vay nợ…
Ngoài ra, các hiện tượng buôn lậu qua biên giới diễn ra khá phức tạp và phổ biến, việc chống đầu cơ thương mại cũng như đầu cơ ngoại tệ chưa được thực hiện tốt.
Như vậy, xét về mặt lợi ích của những người có tài sản bằng tiền và sự quản lý đối với những lĩnh vực này vẫn còn những bất cập. Chính vì vậy, thị trường tự do vẫn tồn tại. Hiện tượng Đô la hóa này không chỉ ở riêng Việt Nam, mà ở các nước khác như Nga, Lào, Campuchia, Indonesia, các nước vùng Trung Á… vẫn tồn tại thị trường tự do, chiếm tỷ trọng khá lớn.
Quy mô và tỷ trọng của thị trường này có xu hướng ngày càng giảm khi nền kinh tế phát triển, ổn định, lạm phát thấp và cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, Nhà nước có nguồn dự trữ ngoại hối lớn để có thể sẵn sàng can thiệp.
Con đường dài đến đồng tiền chung ASEAN
Nguyen Kong - Nam 37 tuổi - Nhân viên môi giới:
Tại sao Việt Nam và các nước ASEAN không liên kết để tạo một đồng tiền chung, vì như thế sẽ hạn chế được những tác động và khó khăn như hiện nay? Xin các chuyên gia cho biết những điều kiện nào để làm được điều đó và có thể có một đồng tiền chung ASEAN trong tương lai không? Xin cảm ơn.
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Con đường đi đến một đồng tiền chung của bất kỳ một khu vực kinh tế nào là một con đường rất dài và đầy chông gai. Chỉ cần nhìn vào những chặng đường gian nan để đi đến đồng tiền chung Euro là có thể thấy rõ điều này.
Những khó khăn này xuất phát từ các nguyên nhân chính trị và kinh tế. Khoan bàn về những khó khăn chính trị, riêng về mặt kinh tế thì để thống nhất một đồng tiền chung, điều kiện tiên quyết là các quốc gia thành viên phải thống nhất về chính sách tiền tệ và trong một chừng mực nào đó là chính sách tài khóa và thương mại.
Mà để làm được điều này thì mỗi nước, đặc biệt là ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên, buộc phải chấp nhận hy sinh sự độc lập của mình ở mức độ nhất định - một điều không dễ tìm được sự đồng thuận.
Đối với trường hợp của ASEAN với các quốc gia thành viên có trình độ phát triển kinh tế hết sức khác nhau, chính sách kinh tế, tài khóa, tiền tệ, thương mại… cũng không tương đồng thì việc tìm kiếm một tiếng nói chung đối với chính sách tiền tệ là điều rất khó, thậm chí không khả thi trong nhiều năm tới.
Nói cách khác, với những lý do hết sức cơ bản (mặc dù chưa đầy đủ) này, tương lai của một đồng tiền chung ASEAN sẽ còn rất xa xôi.
Cũng phải nói thêm rằng việc có một đồng tiền chung cho khu vực ASEAN không phải là điều kiện cần, và càng không phải là một điều kiện đủ để giải quyết những vấn đề khó khăn hiện nay của Việt Nam cũng như của một số nước khác trong khu vực.
Ông Trương Văn Phước:
Ý tưởng về một đồng tiền chung ASEAN cũng từng đã được đề cập tới dưới nhiều góc độ khác nhau. Thông thường, khi có các biến động về tỷ giá các đồng tiền thì người ta hay nghĩ tới đồng tiền chung như thế.
Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nền kinh tế châu Âu phải mất vài chục năm để cùng thống nhất cho ra đời đồng Euro vào năm 1999, mà bây giờ vẫn còn một số quốc gia khu vực này sử dụng đồng tiền riêng của họ, như Anh quốc chẳng hạn.
Để có một đồng tiền chung cần hội đủ rất nhiều điều kiện, nhưng điều dễ thấy nhất là sự tương đồng về kinh tế giữa các quốc gia đó, bao gồm cấu trúc tài chính, các thể chế cho các loại thị trường hoạt động...
Riêng tôi thì cũng mong muốn Việt Nam cùng với các nước ASEAN bắt tay vào nghiên cứu sự ra đời của một đồng tiền chung như thế trong tương lai.
Tuan Anh - Nam 30 tuổi:
Hiện nay, nhiều nhà đầu tư đang băn khoăn không biết nên cân đối các khoản mục đầu tư như thế nào giữa các kênh: chứng khoán, vàng, ngoại tệ, gửi tiết kiệm, bất động sản... do tình hình diễn biến trên các thị trường này rất thất thường? Mong TS. Lê Xuân Nghĩa cho một lời khuyên, em xin cám ơn nhiều.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng tôi, về mặt chiến lược khi nền kinh tế phục hồi và hưng thịnh thì đầu tư vào tiết kiệm, bất động sản hoặc chứng khoán đều là những danh mục đầu tư tốt.
Đầu tư vào ngoại tệ thì phải cân nhắc. Bạn có thể so sánh tỷ giá giữa VND và USD, giữa USD và các đồng tiền mạnh khác và giả định rằng, đầu năm 2010 ngân hàng trung ương Mỹ bắt đầu tăng lãi suất và đồng USD mạnh lên thì tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có thể thay đổi theo hướng VND yếu thêm.
Nhưng nếu lãi suất VND cũng tăng, bỏ gói hỗ trợ tín dụng ngắn hạn thì VND cũng tăng giá. Vì vậy tôi cho rằng tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có thể có biến động nhẹ vào đầu năm 2010 do các ngân hàng trung ương của các nước và của Việt Nam đều thay đổi lãi suất.
Trong hai thị trường bất động sản và chứng khoán, bạn có thể cân nhắc lựa chọn chứng khoán nếu vốn ít, bất động sản nếu vốn nhiều, hoặc cả hai nếu vốn quá nhiều.
Kim Thu - Nữ 37 tuổi - KTV:
Tôi xin hỏi các diễn giả là vì sao Việt Nam không đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán để tránh lệ thuộc vào đồng USD và có nhiều biến động và khó khăn trong điều hành? Vì sao Ngân hàng Nhà nước không quy định biên độ tỷ giá giữa VND với các đồng tiền khác?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Hiện nay, Việt Nam có giao dịch thương mại và thu hút đầu tư với rất nhiều nước, trong đó có 20 quốc gia có quan hệ thương mại và đầu tư lớn. Pháp luật của Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế không cấm các doanh nghiệp trong việc sử dụng ngoại tệ của các nước làm phương tiện thanh toán. Điều này do bên mua và bên bán thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong các giao dịch thương mại và đầu tư trên thị trường quốc tế, USD vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đối với kinh tế Việt Nam, trong các hợp đồng thương mại và giao dịch về vốn với nước ngoài, đồng USD chiếm tỷ trọng trên 60%.
Mặt khác, việc thanh toán đồng tiền nào còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, hiện tượng tồn tại khách quan là USD chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch.
Trên thực tế, các doanh nghiệp cũng đã sử dụng đồng Euro, Yên Nhật, Nhân dân tệ… trong các giao dịch mua bán và đầu tư. Điều này xuất phát từ các điều kiện về mặt pháp luật cũng như lợi ích của các bên.
"Nhiều doanh nghiệp phải huy động vốn trên thị trường chợ đen"
Ngọc Thủy - Nữ 27 tuổi:
Không còn được hỗ trợ lãi suất và tín dụng nới rộng như trong năm 2009, liệu hoạt động doanh nghiệp trong năm tới có gặp khó khăn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho thấy đầu tư của khu vực doanh nghiệp và tư nhân có chiều hướng giảm bắt đầu tư quý 3/2009. Lý do, hàng tồn kho tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Vì vậy cho nên không được hỗ trợ lãi suất sẽ là khó khăn cộng thêm cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu cầu tiêu dùng tăng mạnh, kể cả trong nước và quốc tế thì những khó khăn này có thể được giảm bớt. Nhiều doanh nghiệp nói với tôi rằng, cái họ cần là tiếp cận được vốn ngân hàng với lãi suất thị trường mà không cần tài trợ, còn hơn là được tài trợ mà không tiếp cận được vốn.
Nhiều doanh nghiệp hiện đang phải huy động vốn trên thị trường chợ đen với lãi suất 4,5 đến 5%/ tháng. Đây là một điều hết sức đáng lo ngại.
Vì vậy vấn đề mấu chốt là tạo mọi điều kiện thuận lợi đề doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng, kể cả bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Trần Minh Tân - Nam 50 tuổi - Doanh nhân:
Câu hỏi 1: Tại sao hầu như các đồng tiền trên thế giới đều giữ giá và lên giá so với USD, đồng tiền của 9 quốc gia còn lại trong ASEAN cũng vậy chỉ trừ Việt Nam?
Câu hỏi 2: Từ năm 1994 đến 2007 có nhiều giai đoạn rất khó khăn nhưng đồng tiền Việt Nam không bị mất giá nhanh như 2 năm gần đây. Nguyên nhân do đâu có phải yếu kém trong điều hành vĩ mô không?
Ông Trương Văn Phước:
Đây là một câu hỏi rất thú vị vì nó giải thích vì sao từ trong quá khứ đến hiện tại khi Đô la Mỹ lên giá ở nước ngoài thì lại không lên giá với VND, ngược lại khi Đô la Mỹ mất giá ở nước ngoài thì lại không xuống giá với VND.
Mỗi cơ chế tỷ giá hối đoái đều phản ánh ở trong lòng nó các yêu cầu để phục vụ một cách tốt nhất cho nền kinh tế có cơ chế đó. Thông thường, các quốc gia đều phải xây dựng được một vùng mục tiêu tỷ giá, dù họ theo đuổi cơ chế tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hay các cơ chế tỷ giá trung gian khác. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Làm sao để điều hành tỷ giá trong vùng tỷ giá mục tiêu để hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, thu hẹp nhập siêu, tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu, tạo niềm tin cho các luồng vốn bên ngoài vào, lại phải cân đối nợ nần quốc gia, nợ nần doanh nghiệp... là mục tiêu quan trọng nhất cho việc điều hành tỷ giá.
Vùng tỷ giá mục tiêu ngoài sự tác động của giá trị các ngoại tệ khác so với đô la Mỹ còn chịu ảnh hưởng bởi chênh lệch lạm phát của Việt Nam với các quốc gia, đối tác thương mại, đầu tư... chủ yếu.
Đương nhiên tỷ giá còn chịu tác động bởi quy luật cung - cầu, như năm 2007 cung lớn hơn cầu thì tỷ giá USD lại đi xuống so với VND.
Phạm Tuấn Anh - Nam 27 tuổi - Nhà đầu tư:
Thưa ông Phước, ảnh hưởng của việc tăng lãi suất cơ bản và dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào cuối năm tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong ngắn và trung dài hạn?
Ông Trương Văn Phước:
Câu hỏi này tôi đã trả lời, xin bạn xem lại phần nội dung trên của buổi giao lưu.
Nhưng có thể nói nó còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác của nền kinh tế, như mức tăng lạm phát, tăng trưởng tín dụng, cung - cầu vốn thị trường...
Đã áp dụng nhiều biện pháp ngừa lạm phát
Lê Thương Tín - Nam 27 tuổi - Môi giới chứng khoán:
Xin các ông cho biết, Ngân hàng Nhà nước bằng cách nào để kiềm chế lạm phát có thể xảy ra đầu quý 1/2010?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, một phần câu hỏi này tôi đã trả lời ở các câu hỏi trước, bạn tham khảo nhé.
Với quý 1/2010, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp ngay từ bây giờ để kiểm soát lạm phát năm 2010. Như kiểm soát tín dụng, kiểm soát cung ứng tiền, quản lý thị trường ngoại hối, vàng...
Đồng thời, các bộ khác cũng đã có những biện pháp để tắng cung hàng hóa và kiểm soát giá cả vào dịp Tết Nguyên đán.
Nhóm hàng dự đoán có thể tăng giá chút ít là lương thực, thực phẩm, chủ yếu là lương thực, do giá thế giới đang tăng. Còn hàng công nghiệp và dịch vụ không có khả năng biến động nhiều.
Viet Chinh - Nam 36 tuổi - Kinh doanh:
Suốt những năm qua Ngân hàng Nhà nước hay chính sách tiền tệ luôn đứng trước yêu cầu hỗ trợ tăng trưởng, nhưng cũng phải kiềm chế lạm phát. Hai yêu cầu này có nhiều điểm mâu thuẫn, như về yếu tố cung tiền và tăng đều tư. Vậy xin hỏi các chuyên gia đâu là giải pháp có thể dung hòa được hai yêu cầu này? Thứ hai, việc điều chỉnh tỷ giá cũng đứng trước những mâu thuẫn lợi ích: hỗ trợ xuất khẩu, nhưng nhập khẩu và nợ nước ngoài lại tăng, đầu vào giá cả tăng... Liệu có thể dung hòa được những lợi ích đó, hay vẫn phải cân nhắc và buộc phải lựa chọn và "hy sinh"? Trân trọng cảm ơn.
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Bạn nhận xét rất đúng rằng trong giai đoạn vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đứng trước cùng một lúc hai nhiệm vụ là vừa hỗ trợ tăng trưởng vừa ổn định giá trị đồng tiền (tức là giữ ổn định tỷ giá và CPI), và thường thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên hơn so với ổn định giá trị đồng tiền (dấu hiệu cho thấy điều này là Ngân hàng Nhà nước thường chỉ được yêu cầu thắt chặt tiền tệ khi CPI đã vượt quá một ngưỡng nguy hiểm).
Nói cách khác, ở Việt Nam, chính sách tiền tệ thường chạy theo chính sách tăng trưởng, và điều này cũng có nghĩa là để tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn thì cung tiền và tín dụng cũng phải tăng rất nhanh - điều mà chúng ta đã quan sát được trong hai năm 2007 - 2008 vừa qua.
Việc tăng trưởng tín dụng và đầu tư cao không nhất thiết làm tăng CPI nếu như tín dụng được sử dụng một cách hiệu quả - tức là góp phần tạo ra giá trị gia tăng và tăng năng suất. Ngược lại, nếu nguồn tiền được đổ vào nền kinh tế rất nhiều nhưng lại không tạo được một lượng giá trị gia tăng tương ứng thì kết quả sẽ là lạm phát - điều mà chúng ta đã chứng kiến trong giai đoạn bất ổn vĩ mô trong năm 2007 - 2008.
Như vậy, trong dài hạn, để có thể tăng trưởng nhanh và bền vững, cần gia tăng hiệu quả của nền kinh tế. Đáng tiếc là về phương diện này, nền kinh tế của chúng ta có những khiếm khuyết cơ bản.
Chẳng hạn như hệ số ICOR (đo lường số đơn vị đầu tư để tạo ra được một đơn vị tăng trưởng GDP) của Việt Nam đã trên 5 - tức là tăng trưởng của chúng ta rất tốn kém; đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp vào tăng GDP của Việt Nam giảm từ 50% vào đầu những năm 1990 xuống chỉ còn 15% vào những năm gần đây và thấp hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan hay Trung Quốc.
Nguyen Thu Na - Nữ 30 tuổi - PV:
Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh tra toàn diện hoạt động của các tổ chức tín dụng có lãi suất huy động VND từ 10,5% trở lên. Các ông nói gì về điều này?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Kể từ ngày 1/12, lãi suất cơ bản là 8%/năm. Theo đó, các mức lãi suất cho vay và huy động bằng VND của các ngân hàng thương mại không vượt quá 12%/năm.
Để đảm bảo hiệu quả và an toàn hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại phải có mức chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào hơn 2%/năm. Như thế, các ngân hàng thương mại huy động vốn với mức lãi suất từ 10,5% trở lên là một hiện tượng không bình thường, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh trong việc huy động vốn, có nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn hệ thống.
Vì vậy, với chức năng giám sát an toàn hoạt động kinh doanh đối với các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn cần phải tiến hành thanh tra các ngân hàng thương mại này để làm rõ nguyên nhân của việc huy động lãi suất cao và xử lý kịp thời các nguy cơ có thể xảy ra đối với thị trường và hệ thống ngân hàng.
Đối với thị trường và hoạt động của ngân hàng trung ương ở các nước, điều này cũng là bình thường khi ngân hàng trung ương thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thái Văn Thành - Nam 42 tuổi - XNK:
Hiện nay các ngân hàng thương mại đều tập trung phát triển dịch vụ thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu. Xin hỏi các đại biểu, quý vị có những tư vấn, dịch vụ nào thật cụ thể để giúp doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế tối đa được các khoản vay, mua và khó mua USD như thời gian qua, để doanh nghiệp không phải "thắc thỏm" và "giật mình" mỗi lần biến động tỷ giá?
Ông Trương Văn Phước:
Ngân hàng Xuất nhập khẩu chúng tôi cũng có thế mạnh về việc cung ứng các dịch vụ như bạn vừa nêu. Tuy nhiên, cũng phải hết sức nỗ lực và vận dụng cả một gói các sản phẩm dịch vụ để cùng với các doanh nghiệp chia sẻ các khó khăn.
Chẳng hạn trong 6 tháng qua chúng tôi đã sử dụng nghiệp vụ cho vay ngoại tệ có kèm bảo hiểm tỷ giá trên 100 triệu USD. Tỷ giá tăng lên chúng tôi bị thiệt, nhưng bù đắp lại được hưởng mức lãi suất cho vay USD cao hơn nhiều nếu phải gửi ở nước ngoài bình quân 1%/năm. Tạo ra một môi trường tương đối ổn định kể cả lãi suất, tỷ giá thì nằm ngoài khả năng của bất kỳ một tổ chức tín dụng nào.
Nhưng chúng tôi luôn luôn đứng bên cạnh các doanh nghiệp để chia sẻ những khó khăn như thế, trong năm 2008 Eximbank cũng đã có chương trình cho vay VND theo lãi suất 8,4%/năm trong khi trần lãi suất là 21%/năm. Cho vay lãi suất thấp, nhưng được các doanh nghiệp hỗ trợ bán lại ngoại tệ cho chúng tôi.
Đây là một bài học lớn trong kinh doanh mà chúng tôi đã thu hoạch được.
Do Van Ly - Nam 36 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có nói rằng việc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ là trách nhiệm đối với nền kinh tế. Tôi ủng hộ quan điểm này. Nhưng đây là một giải pháp mang tính tình thế, khó có thể kéo dài bởi phải tôn trọng tính thị trường và tự chủ của doanh nghiệp. Ý kiến của diễn giả như thế nào về giải pháp này? Xin cám ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi cũng đồng ý với quan điểm của bạn. Nếu thị trường kỳ vọng tỷ giá tăng thì nhiều người sẽ găm giữ ngoại tệ, và ngược lại kỳ vọng giảm thì sẽ bán vội. Đấy là phản ứng tự nhiên.
Vì vậy, Chính phủ phải xóa bỏ những kỳ vọng bằng cách hoặc làm cho tỷ giá hối đoái ổn định, hoặc thả nổi tỷ giá theo thị trường. Trước mắt thì Chính phủ chủ trương linh hoạt tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc thị trường. Và nếu mức độ linh hoạt kém thì những kỳ vọng nói trên sẽ xuất hiện.
Ly Phuoc An - Nam 41 tuổi - Quan ly:
Thưa ông Lý Xuân Hải, liệu tỷ giá có thể tăng trên 22.000 đồng/USD, và nếu có thì vào thời điểm nào?
Ông Lý Xuân Hải:
Để tính toán tỷ giá giữa hai loại tiền tệ của hai quốc gia, cần đánh giá căn cứ trên sức mạnh nội tại và cấu trúc của mỗi nền kinh tế, các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách đầu tư và khuyến khích đầu tư, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm và dịch vụ, thị trường tiêu thụ... cũng như sự tương quan giữa các yếu tố trên của 2 quốc gia.
Trong điều kiện đó, có thể nói tỷ giá giao dịch USD/VND trên thị trường hiện nay thể hiện tương đối chính xác tương quan của USD/VND, trong đó đã thể hiện kết quả và ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ mới được ban hành bởi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Việc dự báo tỷ giá cần căn cứ vào phân tích, đánh giá và dự báo các yếu tố nêu trên nên chỉ mang tính chất tham khảo và mang tính chủ quan của mỗi người. Đặc biệt vấn đề tỷ giá phụ thuộc rất nhiều vào sự tương quan giữa giá trị của 2 loại tiền tệ là yếu tố được mỗi quốc gia có chủ quyền cân nhắc rất thận trọng trước khi thực thi các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sức mạnh của đồng tiền và phục vụ các mục tiêu lâu dài của quốc gia ấy.
Như vậy, tỷ giá USD/VND sẽ đạt mức bao nhiêu còn phụ thuộc vào các chương trình và chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng như tình hình kinh tế tài chính quốc tế trong tương lai. Hiện nay Chính phủ đang tập trung tăng trưởng kinh tế trên nền tảng sự ổn định chính sách tiền tệ.
Và như vậy theo tôi, trong tương lai gần tỷ giá USD/VND sẽ không thể đạt con số 22.000 đồng này.
Pham Quoc Hung - Nam 27 tuổi - Nhân viên ngân hàng:
Việc tăng lãi suất thông thường sẽ giúp cho đồng tiền lên giá. Vậy theo các ông việc đồng Việt Nam mất giá so với USD hiện nay có phải là trái quy luật không. Khi nào thì đồng Việt Nam lấy lại được giá trị đã mất của mình.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Đúng là tăng lãi suất làm cho VND tăng giá, vì vậy lần này cùng với việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, Chính phủ chủ trương tăng lãi suất cơ bản và chấm dứt gói hỗ trợ tín dụng ngắn hạn vào cuối năm 2009 là nhằm hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái.
Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản có hiệu lực từ ngày 1/12/2009, vì vậy nó chưa có tác dụng hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái nhưng có thể hiểu tác dụng sẽ mạnh dần lên trong thời gian tới.
Trong kinh tế thị trường không đặt vấn đề sẽ lấy lại được những gì đã mất, vì thực tiễn luôn thay đổi.
Nguyễn Văn Tuấn - Nam 30 tuổi - Ngân hàng:
Theo nhu cầu thị trường hiện tại, có thể thấy cầu về USD ngày một tăng cao trong những tháng cuối năm. Theo các diễn giả, Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể nào nhằm giảm độ chênh giữa tỷ giá niêm yết và thực tế giao dịch trên thị trường (tất nhiên không phải bằng biện pháp nâng tỷ giá của VND/USD như thời gian vừa qua)?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Từ ngày 26/11, theo điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại có thể giao dịch USD với mức tỷ giá trần 18.500 VND/USD. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, mức tỷ giá này là phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và thị trường đã có phản ứng tích cực. Thanh khoản ngoại tệ trên thị trường đã tăng lên, tỷ giá trên thị trường tự do cũng giảm xuống.
Tuy nhiên, phải mất một thời gian ngắn nữa, sự điều chỉnh này mới “thẩm thấu” mạnh vào thị trường. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các biện pháp can thiệp như bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại có trạng thái ngoại tệ âm trên 5%, triển khai việc yêu cầu các tổng công ty bán ngoại tệ và các biện pháp khác để tăng cung ngoại tệ ra thị trường, kiểm soát nhập siêu…
Với các biện pháp này, thị trường tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tích cực, kéo tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống, biến động xoay quanh mức của thị trường chính thức.
Việc thực thi chính sách ngoại hối của Nhà nước cũng cần sự ủng hộ và chấp hành của các doanh nghiệp và người dân. Có vậy, chính sách mới có hiệu quả và hiệu lực, thị trường tiền tệ, ngoại hối được ổn định, đem lại lợi ích cho cộng đồng dân cư và doanh nghiệp.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Như đã trả lời nhiều bạn trước bạn, lãi suất VND ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn. Vì vậy, để ổn định tỷ giá hối đoái cần có chính sách lãi suất phù hợp, đặc biệt là mức chênh lệch giữa lãi suất VND và ngoại tệ.
Bắt đầu từ tháng 11/2009 tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu đang mạnh lên, đây một mặt là dấu hiệu của kinh tế phục hồi, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và cả hàng tiêu dùng đang tăng trở lại. Vì vậy, thâm hụt thương mại cũng sẽ lớn hơn so với các tháng đầu năm và áp lực tăng tỷ giá hối đoái là điều hiển nhiên.
Chính phủ có nhiều cách để giải quyết căng thẳng ngoại tệ như kiểm soát nhập khẩu, đặc biệt là hàng tiêu dùng, đẩy mạnh giải ngân vốn ODA trực tiếp, điều chỉnh lãi suất VND, và cuối cùng là điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tất nhiên là cần có thời gian để các biện pháp này phát huy tác dụng. Tôi tin rằng, mặc dù nhu cầu ngoại tệ cuối năm tăng lên nhưng tỷ giá hối đoái sẽ ít biến động trong thời gian tới.
Cũng có ý kiến cho rằng điều chỉnh tỷ giá hối đoái như vừa qua là chưa đủ "đô", và như vậy vẫn còn kỳ vọng tăng tỷ giá hối đoái và tình trạng găm giữ hoặc cất trữ ngoại tệ vẫn còn khá lớn. Đây là vấn đề phức tạp cần phải tính toán chi tiết. Nhưng theo tôi cách tốt nhất là hành động, hành động như nghị quyết của Quốc hội đã quy định là linh hoạt theo nguyên tắc thị trường.
Do Van Ly - Nam 36 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có nói rằng việc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ là trách nhiệm đối với nền kinh tế. Tôi ủng hộ quan điểm này. Nhưng đây là một giải pháp mang tính tình thế, khó có thể kéo dài bởi phải tôn trọng tính thị trường và tự chủ của doanh nghiệp. Ý kiến của diễn giả như thế nào về giải pháp này? Xin cám ơn.
Ông Trương Văn Phước:
Nếu thị trường gặp phải những khó khăn thì một công dân bình thường cũng phải chung tay cùng Nhà nước chia sẻ khó khăn đó, huống hồ đó là các doanh nghiệp mà người chủ lại là Nhà nước.
Tôi hoàn toàn ủng hộ chủ trương mà Thủ tướng đã tuyên bố, đó là: các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có ngoại tệ phải bán cho các tổ chức tín dụng để cung ứng cho nền kinh tế, khi có nhu cầu thì mua lại. Vì sao một chủ trương đúng đắn như thế không được thực hiện nghiêm túc, kịp thời?
Đương nhiên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có các nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp pháp của họ. Nhưng nếu vì có nhu cầu trong tương lai, có thể rất gần, có thể rất xa, mà cứ giữ khư khư ngoại tệ trên tài khoản thì mất cân đối cung - cầu ngoại hối là chuyện đương nhiên.
Tôi tin cuối cùng rồi chủ trương đó sẽ được thực hiện nhanh và nghiêm túc, góp phần tạo sự ổn định của thị trường ngoại hối.
Nguyen Hai - Nam 39 tuổi - Phân tích viên:
Tôi ủng hộ quan điểm và lý do mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra là tăng lãi suất nhằm chủ động hơn trong việc phòng ngừa lạm phát cao trở lại. Tuy nhiên, đi cùng với những điều chỉnh vừa qua, theo tôi Ngân hàng Nhà nước cũng nên thông tin cụ thể về định hướng tăng trưởng tín dụng trong năm tới để người dân, doanh nghiệp có thể chủ động hơn. Theo các diễn giả thì trong năm 2010 tăng trưởng tín dụng như thế nào thì hợp lý?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn bạn đã đặt câu hỏi.
Về lý thuyết thì có công thức để tính nhu cầu tín dụng hằng năm và có thể ước được tốc độ tăng trưởng tín dụng hằng năm. Còn về chính sách thì Ngân hàng Nhà nước dự kiến điều chỉnh mức tăng trưởng tín dụng một cách từ từ, nhằm kiểm soát lạm phát trong trung hạn và hỗ trợ cho phục hồi và phát triển trở lại của doanh nghiệp.
Dự đoán của tôi là tăng trưởng tín dụng năm tới có thể giảm xuống dưới 30%. Và như vậy cũng đã có những khó khăn nhất định cho khu vực doanh nghiệp.
Anh Nam - Nam 39 tuổi - Nhà đầu tư:
Cảm ơn VnEconomy và các diễn giả. Đây là chủ đề mà chúng tôi (nhóm các nhà đầu tư) thảo luận vào các buổi cà phê sáng. Chúng tôi nhận định rằng lãi suất năm 2010 để giữ ổn định sẽ phải đòi hỏi nỗ lực rất lớn của các ngân hàng và chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các ông nghĩ sao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn các bạn đã quan tâm, như tôi đã trả lời, nếu kinh tế phục hồi mạnh mẽ thì tất yếu lãi suất có xu hướng tăng lên. Điều này đúng với mọi nền kinh tế, vì nhu cầu đầu tư tăng lên mà nguồn tài chính lại có hạn.
Tuy nhiên ở nước ta còn phụ thuộc vào hiệu quả của việc chống lạm phát. Tôi cho rằng, ổn định được lãi suất vào giai đoạn hiện nay, kể cả trong năm 2010 là một nhiệm vụ rất khó khăn. Nhưng duy trì cho lãi suất tăng nhẹ, tiến dần tới ổn định khi kinh tế phục hồi vững chắc là điều có thể.
Tạ Thanh Bình - Nam 32 tuổi - Phân tích tài chính:
Xin hỏi quý vị khách mời một số câu hỏi sau:
1. Nguyên nhân tại sao lại có một chính sách thay đổi đột ngột như thế trong khi các nhân vật quan trọng của Chính phủ đăng đàn trước đó đã cam kết giữ nguyên cho đến hết năm 2009?.
2. Việc thay đổi tỷ giá đã làm cho tỷ giá tự do giảm xuống, tuy nhiên điều này có bền vững trong thời gian tới, liệu tỷ giá niêm yết có tiếp tục chạy theo tỷ giá tự do khi chính sách không đủ mạnh để làm cho tỷ giá tự do xích gần với tỷ giá niêm yết? Nếu giải quyết tốt thì sẽ là biện pháp tốt, nếu giải quyết nửa chừng thì liệu có trở thành một tiền lệ xấu là tỷ giá niêm yết chạy theo tỷ giá tự do?
3. Trong thời gian tới liệu có sức ép gì để tiếp tục nâng lãi suất cơ bản và tỷ giá nữa không?
Ông Vũ Thành Tự Anh:
Bạn Tạ Thanh Bình thân mến, việc điều chỉnh tỷ giá vừa qua của Ngân hàng Nhà nước không phải “chạy theo tỷ giá tự do” mà là một hành động phản ứng theo hướng thích hợp với tình hình cung cầu và diễn biến của thị trường ngoại hối.
Cụ thể là trong một thời gian dài, VND đã được định giá cao so với USD. Đồng thời, trong điều kiện thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tăng nhanh như hiện nay (mức thâm hụt thương mại của tháng 11/2009 là gần 2 tỷ USD và của 11 tháng đầu năm là trên 10 tỷ USD), thị trường ngoại hối căng thẳng do cầu vượt xa cung, tỷ giá trên thị trường tự do cao hơn so với tỷ giá chính thức tới 10%… thì việc giảm giá VND chỉ là vấn đề thời gian và mức độ.
Cho đến thời điểm này, mặt dù căng thẳng trên thị trường ngoại hối đã dịu bớt nhưng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và chính thức vẫn còn khoảng 1.000 đồng/USD, bên cạnh đó những sức ép làm giảm giá VND như lạm phát, thâm hụt thương mại và tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối giảm... vẫn còn đó, có nghĩa là sức ép tiếp tục giảm giá VND vẫn đang được duy trì, mặc dù nhẹ hơn so với trước khi Ngân hàng Nhà nước nới tỷ giá.
Nguyễn Thành Minh - Nam 35 tuổi - Kinh doanh:
Xin phép được hỏi ông Bảo một số câu hỏi sau đây:
1) Khi đưa ra lãi suất cơ bản hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước dựa trên những cơ sở nào?
2) Ông có nghĩ rằng, phát ngôn của những nhà quản lý trên báo chí sẽ được coi là cam kết với dân chúng, nếu phát ngôn một đằng làm một nẻo thì điều đó nói lên điều gì?
3) Theo ông, tỷ giá ngoại tệ VND/USD hiện nay đã phản ánh trung thực chưa, ông có dự báo gì về tỷ giá VND/USD sau 12 tháng nữa?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn,
Lãi suất cơ bản là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, là cơ sở để ngân hàng thương mại ấn định lãi suất huy động và cho vay. Mức lãi suất này đạt yêu cầu tạo điều kiện cho các giao dịch gửi và vay tiền diễn ra thuận lợi.
Thực tế, trong thời gian qua, mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đã đạt được mục tiêu này, bởi vì, khi xác định và công bố lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước có sự phân tích cụ thể và dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tình hình cung cầu vốn thị trường, tâm lý của doanh nghiệp và người dân, xu hướng lãi suất trên thị trường quốc tế, cũng như một số biến kinh tế khác làm cơ sở cho việc đưa ra một mức lãi suất cơ bản hợp lý.
Theo quy định của pháp luật về báo chí và công chức cũng như để đảm bảo uy tín của mình, tôi nghĩ rằng, các nhà quản lý có trách nhiệm khi công bố các thông tin với báo chí phải đưa ra những phát ngôn hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, và các chính sách, giải pháp mà các cơ quan đó đang triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, thị trường nước ta chịu tác động tổng hợp của các yếu tố trong và ngoài nước, mà có nhiều nhân tố biến động chưa được lường trước, sẽ kéo theo các phản ứng chính sách diễn ra nhanh hơn kỳ vọng của thị trường. Mục tiêu của phản ứng chính sách này là nhằm ổn định thị trường và hạn chế những rủi ro đối với lợi ích của doanh nghiệp và người dân. Điều này là hoàn toàn tích cực.
Vấn đề tỷ giá tôi đã đề cập ở trên.
Nguyễn Thu Trang - Nữ 26 tuổi - Chuyên viên phân tích:
Liệu có khả năng ngân hàng sẽ bị hạn chế / không cho phép kinh doanh sàn vàng nữa hay không? Ảnh hưởng về mặt doanh thu / lợi nhuận từ việc này đến họat động kinh doanh vàng của ACB?
Ông Lý Xuân Hải:
Hoạt động kinh doanh vàng hiện nay chỉ là một trong các hoạt động của ACB. Trong mảng hoạt động này có hai hoạt động kinh doanh độc lập: môi giới hoạt động đầu tư vàng thực hiện tại Trung tâm Giao dịch vàng ACB và hoạt động tự doanh vàng trong nước và nước ngoài.
Hoạt động môi giới tại Trung tâm Giao dịch vàng ACB chỉ đem lại một khoản thu nhập từ phí, không lớn mà chủ yếu là để cung cấp các sản phẩm đầu tư và bảo hiểm tài sản cho khách hàng.
Mô hình kinh doanh hàng hoá - ngoại tệ (trong đó có vàng) tại một điểm giao dịch tập trung, được cung cấp bới các định chế tài chính và môi giới chuyên nghiệp, với tính đòn bẩy cao, an toàn và hiệu quả... hiện đang rất phổ biến trên toàn thế giới mà Việt Nam chỉ mới bắt đầu triển khai.
Chúng tôi hy vọng Chính phủ và các cơ quan hữu quan sẽ sớm chuẩn hoá và ban hành các văn bản hướng dẫn để các hoạt động này được chuẩn hoá và hiệu quả hơn. Căn cứ các quy định và khung pháp luật hiện hành, các hoạt động này có thể được triển khai nhưng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế.
Các hoạt động kinh doanh vàng trong nước và kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài của ACB đã, đang và sẽ được triển khai mà không liên quan đến hoạt động của Trung tâm Giao dịch vàng ACB. Các hoạt động này đã và đang đem lại cho ACB nguồn thu nhập đáng kể. Đặc biệt kinh doanh vàng đã giúp ACB sử dụng một cách rất sáng tạo và hiệu quả các nguồn vốn huy động của mình.
Những hoạt động này mới là dáng kể và có ý nghĩa lớn trong thu nhập của ACB.
"Tỷ giá tăng lên có người vui, có kẻ buồn"
Viet Chinh - Nam 36 tuổi - Kinh doanh:
Suốt những năm qua Ngân hàng Nhà nước hay chính sách tiền tệ luôn đứng trước yêu cầu hỗ trợ tăng trưởng, nhưng cũng phải kiềm chế lạm phát. Hai yêu cầu này có nhiều điểm mâu thuẫn, như về yếu tố cung tiền và tăng đều tư. Vậy xin hỏi các chuyên gia đâu là giải pháp có thể dung hòa được hai yêu cầu này? Thứ hai, việc điều chỉnh tỷ giá cũng đứng trước những mâu thuẫn lợi ích: hỗ trợ xuất khẩu, nhưng nhập khẩu và nợ nước ngoài lại tăng, đầu vào giá cả tăng... Liệu có thể dung hòa được những lợi ích đó, hay vẫn phải cân nhắc và buộc phải lựa chọn và "hy sinh"? Trân trọng cảm ơn.
Ông Trương Văn Phước:
"Hy sinh" là một đức tính cao cả trong đời sống thực, cũng như trong kinh tế học đã chỉ ra sự "đánh đổi" (trade off).
Thông thường các nền kinh tế chuyển đổi như chúng ta đã thấy đều mong muốn duy trì một mức độ tăng trưởng cao. Muốn vậy cần phải có các nguồn lực về vốn, lao động, công nghệ...
Vốn thì bao gồm vốn trong nước và vốn nước ngoài. Nếu vốn nước ngoài vào nhiều thì đòi hỏi mức vốn trong nước có ít đi, ngược lại, nếu vốn nước ngoài vào ít chắc hẳn nguồn vốn trong nước phải tăng lên để bù đắp cho nhu cầu vốn thực của nền kinh tế. Vốn thực của nền kinh tế mà cao thì áp lực lên lạm phát càng nhiều.
Nhưng cũng cần nói rõ vốn thực của nền kinh tế bao gồm vốn tín dụng ngân hàng, đầu tư và chi tiêu của Chính phủ, kể cả chênh lệch trên cán cân thương mại. Một chính sách kinh tế vĩ mô tối ưu là phải thực hiện cho được sự "đánh đổi" tối ưu như thế. Được cái này thì mất cái kia, làm sao được nhiều mà mất ít...
Tỷ giá hối đoái cũng thế thôi. Tỷ giá tăng lên có người vui, có kẻ buồn, nhưng ở tầm vĩ mô thì phải giải được bài toán tối ưu cho các biến số kinh tế vĩ mô. Điều quan trọng là làm sao tạo ra được một kỳ vọng hợp lý của thị trường trong một môi trường mà thông tin được truyền dẫn kịp thời, đầy đủ để có một niềm tin đúng đắn về các chính sách.
Kien Thiet - Nam 34 tuổi - NVTC:
Có một lẽ đương nhiên theo tôi là ai cũng nghĩ đến: Việc điều chỉnh lãi suất và tỷ giá đương nhiên là vì những mục đích tốt, bởi nếu không tốt thì điều chỉnh làm gì. Thế mà, vừa qua nhiều nhà đầu tư hoảng hốt, bán tháo cổ phiếu, doanh nghiệp lo chi phí vay tăng lên... Liệu những phản ứng đó có hợp lý? Hay những tác động tích cực phải chờ đợi trong dài hạn? Và theo các chuyên gia, có những giải pháp nào để giải quyết dứt điểm những biến động và khó khăn không, hay cứ phải linh hoạt và thay đổi theo thị trường? Xin cảm ơn.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Để tránh những phản ứng hoảng hốt của các nhà đầu tư thì cách tốt nhất là phải làm cho chính sách trở nên dễ dự đoán. Muốn như vậy, thì chính sách cần công khai, minh bạch và nhất quán với tầm nhìn chiến lược. Nếu chính sách thiếu tầm nhìn thường giật cục, khó dự đoán và làm mất lòng tin của các nhà đầu tư.
Một chính sách dễ dự đoán nhất là linh hoạt theo thị trường. Vì, trên thực tế, cũng không có cách nào hiệu quả hơn. Các giá cả như tỷ giá hối đoái, lãi suất và giá cả hàng hóa đều là những chỉ dẫn của thị trường cho các nhà đầu tư.
Mỗi khi chỉ dẫn này méo mó thì ngoài việc hoảng hốt thậm chí còn đầu tư sai, làm thất thoát tài sản cá nhân và làm suy yếu nền tảng tài chính quốc gia.
Phan Van Quoc - Nam 24 tuổi - C.E.O:
Chúc buổi giao lưu thành công tốt đẹp. Đứng trước biến động tỷ giá và biến động lãi suất, chúng ta có thấy chúng ta hy sinh quá nhiều thành quả cho kiểm soát vĩ mô hay không? Trong khi vi mô là những đứa trẻ đang khóc "thèm sữa" mà trong khi không biết người mẹ cho uống gì?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn câu hỏi của bạn. Thực ra, Chính phủ nào cũng đeo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà mục tiêu này được nhiều doanh nghiệp hưởng ứng.
Tuy nhiên, ổn định kinh tế vĩ mô là nền tảng để tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Điều quan trọng là nó tạo ra lòng tin của dân chúng vào Nhà nước, vào hệ thống tài chính của một quốc gia. Vì vậy, tất cả các nước đều ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách để cho ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ và nằm dưới sự giám sát của Quốc hội nhằm kiểm soát được lạm phát mà không bị sức ép từ phía Chính phủ.
Thông thường thì người ta phải hy sinh những mục tiêu ngắn hạn để đạt mục tiêu dài hạn.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Xin hỏi ông Lê Xuân Nghĩa: Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia có trách nhiệm gì đối với các sai phạm trên thị trường chứng khoán không? Gần đây có rất nhiều thông tin về việc một số công ty chứng khoán cùng các nhà đầu tư VIP của họ đánh lên hay đánh xuống một số chứng khoán nào đó. Đây là một điều tối kỵ đối với thị trường chứng khoán các nước vì nó làm méo mó thị trường và thường bị xử phạt rất nặng. Nhưng tại sao ở Việt Nam chưa thấy có động thái gì chấm dứt việc này?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo khảo sát của chúng tôi thì trên thị trường chứng khoán đang có một số hiện tượng như bạn nêu. Nghiêm trọng nhất là huy động vốn của dân chúng để ủy thác đầu tư, dịch vụ mua bán ký quỹ của khách hàng VIP. Điều này không chỉ tạo ra sự không công bằng mà mặt khác còn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư đó tạo sóng, làm giá, lũng đoạn thị trường.
Đồng thời, tạo ra rủi ro rất lớn cho các nhà đầu tư và công chúng nhỏ. Chúng tôi đang nghiên cứu, khảo sát và sẽ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về vấn đề này để Thủ tướng chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán kịp thời chấn chỉnh.
Trần Hải Nam - Nam 30 tuổi - Nhân viên tài chính:
Theo các ông, việc điều chỉnh tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước vừa rồi liệu có cho thấy Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi chính sách quản lý điều hành tỉ giá không? Tức là có hướng đến mục tiêu "thị trường hoá" hay "thả lỏng" không? Tại sao?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh tỷ giá vào cuối tháng 11 vừa qua là việc tiếp tục thực hiện một cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, như đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây.
Với điều kiện của nền kinh tế hiện nay và dự báo trong thời gian tới, như vấn đề nhập siêu, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, những biến động khó lường của kinh tế và thị trường quốc tế, và các giao dịch vốn chưa được tự do hóa, thì Ngân hàng Nhà nước chưa thể thay đổi phương thức điều hành tỷ giá so với hiện nay.
Tuy nhiên, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và kiểm soát thị trường ngoại hối không có những biến động đột biến.
Ngô Sỹ Nam - Nam 22 tuổi - Sinh vien:
Nguyên tắc cơ bản của tỷ giá là dựa trên ngang giá sức mua và ngang giá lãi suất. Việc điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước vừa rồi có dựa trên hai căn cứ này không?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước dựa trên các yếu tố về kinh tế vĩ mô, cung cầu ngoại tệ, xu hướng về kỳ vọng của thị trường, trong đó có cả những nhân tố như bạn quan tâm.
Trần Minh Hải - Nam 31 tuổi - Cán bộ ngân hàng:
Xin chào ông Nghĩa. Ông có thể cho biết, với tình hình Việt Nam hiện tại thì trong năm 2010 và tương lai tỷ giá VND/USD, lãi suất cơ bản bao nhiêu là hợp lý để có thể hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh và ổn định tình hình kinh tế Việt Nam.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, xin trả lời bạn như sau.
Hiện nay chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất đều có sự can thiệp mạnh mẽ của ngân hàng nhà nước. Vì vậy, rất khó dự đoán theo yêu cầu của bạn. Nhưng tôi nghĩ, tỷ giá và lãi suất sẽ không có biến động lớn ít nhất là đến hết quý 1/2010.
Bao nhiêu là hợp lý thì còn phụ thuộc vào tốc độ phục hồi của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Như tôi biết, huy động vốn của các ngân hàng thương mại hiện đang bị cạnh tranh gay gắt với các thị trường khác như vàng, bất động sản, chứng khoán...
Vì vậy, lãi suất cơ bản và tỷ giá hối đoái hiện nay có thể là một mức tương đối hợp lý, ít nhất là hết quý 1/2010.
Thái Văn Thành - Nam 42 tuổi - XNK:
Hiện nay các ngân hàng thương mại đều tập trung phát triển dịch vụ thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu. Xin hỏi lãnh đạo các ngân hàng, quý vị có những tư vấn, dịch vụ nào thật cụ thể để giúp doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế tối đa được các khoản vay, mua và khó mua USD như thời gian qua, để doanh nghiệp không phải "thắc thỏm" và "giật mình" mỗi lần biến động tỷ giá?
Ông Lý Xuân Hải:
Để tránh rủi ro tỷ giá, các doanh nghiệp có nguồn thu bằng loại tiền tệ nào thì hãy vay để kinh doanh bằng loại tiền tệ đó.
Ví dụ: một doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu bẳng Euro thì nên vay thu mua hàng xuất khẩu bằng Euro. Một doanh nghiệp có nhu cầu nhập hàng hoá từ Mỹ để tiêu thụ trong nước thì nên vay VND để mua ngoại tệ thanh toán ngay, không nên vay ngoại tệ.
Một điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp nên từ bỏ thói quen dùng USD là ngoại tệ duy nhất để thanh toán nhập khẩu. Điều này tạo ra thêm các chi phí không cần thiết cho nhà xuất khẩu và sẽ làm tăng giá bán. Chưa kể có rất nhiều quốc gia có chế độ kết hối bắt buộc: khi tiền là ngoại tệ bất kỳ về tài khoản của nhà xuất khẩu lập tức sẽ được chuyển đổi sang nội tệ.
Như vậy để tránh sức ép lên chỉ một loại tiền tệ là USD, các doanh nghiệp nhập khẩu nên cố gắng đàm phán với nhà xuất khẩu thanh toán bằng chính bản tệ của họ hoặc một loại tiền tệ khác USD mà họ có nhu cầu.
Và như vậy là một công đôi việc: bớt chi phí cho người bán và bớt tạo sức ép lên tỷ giá USD/VND
Để tham khảo: Việt Nam nhập khẩu chỉ khoảng 4% từ Mỹ và các quốc gia sử dụng USD, trên 70% từ các quốc gia có ngoại tệ tự do chuyển đổi, khoảng 20% từ Trung Quốc - một quốc gia đang khuyến khích sử dụng Nhân dân tệ trong thanh toán... trong khi lượng ngoại tệ mua thanh toán xuất khẩu đến 80% bằng USD.
YU - Nam 29 tuổi:
Chính phủ buộc các tập đoàn, tổng công ty bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước. Nếu việc đó gây ra thua lỗ cho các đơn vị này thì ai sẽ chịu trách nhiệm?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương là các tổng công ty nhà nước có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu và các nguồn khác bán ngoại tệ cho ngân hàng để làm tăng lượng cung ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối của Nhà nước, cũng như cho thị trường để góp phần bình ổn thị trường ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với các tổng công ty và hệ thống ngân hàng thương mại để triển khai chủ trương này một cách hợp lý và đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Các tổng công ty sẽ không bị thiệt khi thực hiện việc bán ngoại tệ này.
Nguyen Huy - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Vào cuối năm 2008 căng thẳng lượng tiền mặt tại các hệ thống ngân hàng Việt Nam, lãi suất huy động đã đạt trên 20% và chuẩn bị đến kỳ đáo hạn, hiện nay tại các ngân hàng lượng tiền mặt cũng đang khan hiếm, điều này dẫn tới nhu cầu tiền mặt tại các ngân hàng rất lớn, vậy điều này có tác động như thế nào tới các ngân hàng?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, phần lớn tiền gửi hiện nay là tiền gửi ngắn hạn, vì vậy gánh nặng của những khoản tiền gửi có lãi suất cao trước đây chắc không còn nhiều.
Tuy nhiên, khả năng huy động của các ngân hàng thương mại hiện đang bị cạnh tranh bởi các thị trường khác như tôi đã nói, đồng thời cũng chịu tác động bởi việc suy giảm lòng tin của dân chúng và cộng đồng quốc tế vào kinh tế vĩ mô của Việt Nam (tiền gửi chủ yếu là ngắn hạn, trái phiếu chính phủ, đặc biệt là trái phiếu dài hạn bị đình trệ, xếp hạng quốc tế về kinh tế vĩ mô tụt hạng...).
Chính phủ đã biết điều đó và đang nỗ lực cải thiện thanh khoản của các ngân hàng thương mại bằng nghiệp vụ tái cấp vốn, chiết khấu của ngân hàng trung ương. Thông qua đó cải thiện thanh khoản của các doanh nghiệp. Theo phân tích của ủy ban chúng tôi thì thanh khoản của các doanh nghiệp đã cải thiện nhiều so với năm 2008. Ngân hàng cũng tương tự như vậy.
Bắt đầu từ quý 4/2009, thanh khoản đang có dấu hiệu xấu đi, nhưng không nghiêm trọng như năm ngoái và tôi tin là ngân hàng Nhà nước sẽ giải quyết được vấn đề này.
"Khả năng tiếp cận ngân hàng của người dân còn thấp"
Tạ Hữu Doanh - Nam 29 tuổi - Kiểm toán:
Với diễn biến của thị trường vừa qua chúng ta có thể thấy được lượng tiền cất trữ trong dân hiện nay còn rất lớn. Theo các chuyên gia thì để chính sách tiền tệ phát huy được hiệu quả thì chúng ta phải có những biện pháp gì để dự báo; thu hút vốn nhàn dỗi trong dân?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Trước đây, tổ chức JICA của Nhật có những cuộc điều tra về cơ cấu tiền để dành của dân cư thì phần dân cư để dành thông qua tiết kiệm gửi ngân hàng thường thấp hơn để dành bằng vàng và cao hơn so với để dành bằng tiền mặt (nội tệ và ngoại tệ).
Từ mấy năm gần đây không có kết quả điều tra này nhưng tôi đoán hơn một nửa tiền để dành của dân cư là không gửi vào ngân hàng mà chủ yếu để dành bằng vàng hoặc tiền mặt, bất động sản và các tài sản khác.
Điều này cho thấy, khả năng tiếp cận ngân hàng của người dân Việt Nam còn thấp. Phần lớn công chức không có tài khoản ở ngân hàng thương mại ngoại trừ tài khoản để trả lương. Theo thống kê của chúng tôi hiện nay khoảng 2,5 người trưởng thành mới có 1 tài khoản ngân hàng, mà chủ yếu là tài khoản tiết kiệm. Rất ít tài khoản thanh toán. Điều này cho thấy nguồn tài chính trong dân cư còn rất lớn và không được sử dụng hiệu quả.
Gần đây giá vàng đang nhảy múa, xu hướng trở lại cất trữ vàng đang khá mạnh. Vì vậy, các ngân hàng thương mại cần có chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, kể cả tiền gửi và cho vay để khai thác hiệu quả nguồn lực tài chính trong nhân dân.
Tôi không ủng hộ việc khống chế cho vay tiêu dùng hiện nay. Tỷ lệ cho vay tiêu dùng ở nhiều nước là 30 -35%, còn ở Việt Nam mới khoảng dưới 5%. Thông thường cho vay tiêu dùng là cách huy động tiết kiệm tốt nhất từ dân chúng. Chính cho vay tiêu dùng đã kéo nhu cầu của tương lai về hiện tại, tạo ra sức mua cho các doanh nghiệp phát triển.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Ông Lý Xuân Hải có thể cho biết ảnh hưởng của việc căng thẳng tiền tệ trước khi ngân hàng tăng lãi suất cơ bản đến hoạt động của ACB và việc tăng lãi suất cơ bản có giúp gì ngân hàng không?
Ông Lý Xuân Hải:
Nghe có vẻ nghịch cảnh nhưng việc tăng lãi suất cơ bản, dẫn đến tăng trần lãi suất cho vay, làm cho khách hàng dễ tiếp cận đến nguồn tín dụng bằng VND hơn.
Trước đây, khi trần lãi suất là 10,5%, biên lãi suất rất hẹp nên muốn cho vay hiệu quả và tính toán giá thành cho vay theo các lý thuyết giá thành tín dụng rất cơ bản, chúng tôi phải lựa chọn khách hàng rất kỹ căn cứ thu nhập tổng thể mà họ đem lại cho ngân hàng.
Khi biên độ được mở rộng, "khung giá" trở nên rộng hơn và chúng tôi có điều kiện phục vụ được nhiều khách hàng hơn.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các cá nhân là khách hàng mục tiêu của ACB, như chúng tôi được biết, nhu cầu không chỉ là lãi suất thấp (10,5% hay 11,5%-12% không quá quan trọng khi khả năng sinh lời trên đồng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ 25%-30% và tỷ số nợ trong khoảng 1-3 lần).
Điều họ cần nhất là khả năng tiếp cận nguồn vốn đủ, thủ tục nhanh gọn, nhân viên chuyên nghiệp và có khả năng thấu hiều và tư vấn cho khách hàng, các tiện ích kèm theo khi giao dịch với ngân hàng, sự an toàn và hệ thống kênh phân phối đa dạng...
Vương Thị Sương - Nữ 31 tuổi - Tài chính:
Gửi diễn giả của ngân hàng EIB và ACB. Lãi suất cho vay trong hợp đồng của khách hàng các ông hiện nay có bị điều chỉnh lên theo mặt bằng lãi suất mới của thị trường? Với những hợp đồng vay sản xuất kinh doanh mới, các ông đã áp dụng mức lãi suất vay trần 12% chưa?
Ông Lý Xuân Hải:
Việc thay đổi lãi suất của hợp đồng tín dụng phải căn cứ các điều khoản đã được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng không thể tự động điều chỉnh lãi suất của các khế ước nhận nợ mà không căn cứ hợp đồng tín dụng hoặc thoả thuận với khách hàng.
Tuấn Hiệp - 22 tuổi - Sinh viên:
Tại sao trong khi các nước trên thế giới vẫn duy trì chính sách tiền tệ mở rộng, lãi suất vẫn ở mức thấp mà Việt Nam lại có xu hướng thắt chặt tiền tệ. Việc nâng lãi suất cơ bản vừa rồi có phải chỉ nhằm mục đích giúp đỡ các ngân hàng trong vấn đề thanh khoản? Và bản chất của việc thiếu thanh khoản nghiêm trọng là do đâu?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản vừa qua là sự thể hiện nhất quán chủ trương của Ngân hàng Nhà nướctừ đầu năm 2009 tới nay là điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng và căn cứ vào cung - cầu vốn của thị trường, nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các ngân hàng huy động vốn.
Thực tế cho thấy, việc điều chỉnh này là hợp lý và đã được thị trường chấp nhận, cùng với việc tăng tỷ giá sẽ có lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô. Thông tin mà bạn cho rằng người dân rút tiền mua vàng, gây khó khăn cho thanh khoản của ngân hàng là chưa đúng.
Thực tế là huy động vốn của các ngân hàng tiếp tục tăng lên trong tháng 11 khoảng 1%, khả năng an toàn thanh toán của các ngân hàng vẫn đảm bảo, và thị trường tiền tệ tương đối ổn định.
Hoạt động sàn vàng "chưa mang lại hiệu quả thiết thực"
Phương Thanh Trần - Nữ 29 tuổi - Nhân viên:
Các chuyên gia có thể đưa ra ý kiến làm thế nào để hạ nhiệt giá vàng trong nước? Vì nếu cứ để chạy theo giá thế giới thì sẽ biến động thị trường trong nước, gây rối loạn cả điều hành. Cơ quan quản lý có cần qui định một biên độ giá mua và bán đối với giá vàng trong nước so với giá thế giới quy đổi sang VND? Hay quy định chênh lệch giá mua - bán? Ở đây áp dụng cho cả giá vàng vật chất và giá vàng giao dịch trên sàn do sàn công bố.
Ông Trương Văn Phước:
Giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế có những mối tương quan rất chặt chẽ. Giá vàng quốc tế lên cao như hiện nay, tại thời điểm chúng ta đang trao đổi là 1.219 USD/oz, thì giá vàng trong nước cũng phải xấp xỉ 28,3 - 28,5 triệu đồng/lượng. Do đó, không thể làm hạ nhiệt giá trong nước khi giá quốc tế tăng, trừ phi giá quốc tế giảm lại.
Giá trong nước còn phụ thuộc vào tỷ giá USD/VND, dùng để tính toán quy đổi. Vừa qua, thị trường đã sử dụng tỷ giá thị trường tự do chứ không phải tỷ giá chính thức trong quy đổi nên làm cho giá vàng trong nước cao hơn mức quy đổi quốc tế từ 3 - 4 triệu đồng/lượng.
Vấn đề đặt ra hiện nay mà dư luận hết sức quan tâm là nhu cầu vàng từ hoạt động của các sàn vàng và hoạt động tín dụng, cho vay vàng của các ngân hàng thương mại, cùng với một tỷ lệ ký quỹ phù hợp khi vay vàng ra để bán.
Khi cần trả nợ do giá vàng tăng cao thì tạo ra một lực cầu cộng hưởng rất lớn như sự kiện ngày 11/11 vừa qua. Khó để quy định một biên độ mua bán hay một chênh lệch giá mua bán vì nó phụ thuộc hoàn toàn vào cung - cầu của thị trường.
Theo tôi được biết, một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng đang được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu để sớm ban hành.
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi được biết Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước quản lý thống nhất thị trường vàng và sắp tới sẽ áp dụng nhiều biện pháp để chấn chỉnh thị trường. Như kiểm soát xuất nhập khẩu, các sàn vàng chống đầu cơ lũng đoạn trên thị trường này.
Cà nhân tôi cho rằng việc quản lý nhập khẩu vàng nên thực hiện thông qua chính sách thuế, có lợi cho ngân sách hơn là thông qua cấp phép nhập khẩu thường mang lại lợi ích rất lớn cho những công ty được cấp phép. Và rất có thể họ sẽ dùng lợi nhuận kiếm được từ việc hạn chế nhập khẩu để lobby giấy phép mạnh mẽ hơn.
YU - Nam 29 tuổi:
Thưa ông Bảo, có gì đảm bảo là các tổng công ty sẽ không bị thiệt khi bán lại ngoại tệ? Ý ông nói rằng là VND sẽ tăng giá so với USD trong tương lai? Hay Chính phủ sẽ đền bù cho các tổng công ty theo một cách nào khác?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn, việc mua bán sẽ được xác lập bằng những hợp đồng cụ thể để đảm bảo quyền lợi của các bên.
Nguyen Thuy Hang - Nữ 28 tuổi - Can bo:
Các ông nghĩ thế nào về cơ chế trần theo tỷ lệ 150% với lãi suất cơ bản hiện nay? Các nước trên thế giới hầu như không áp dụng vì nó mang dáng dấp hành chính, không phản ánh thực trạng cơ chế thị trường, "bó tay" các doanh nghiệp ngân hàng, vì sao Việt Nam vẫn áp dụng?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Từ năm 1998, Việt Nam đã tự do hóa lãi suất tiền gửi. Từ năm 2002 đã tự do hóa lãi suất cho vay và trong khoảng thời gian đó không ai nhắc đến trần lãi suất mặc dù nó vẫn tồn tại trong Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên, từ năm 2007 lạm phát trở lại, Quốc hội "nhớ" ra và đề nghị Ngân hàng Nhà nước áp dụng quy định này trở lại. Kể từ đó chính sách lãi suất thỏa thuận bị cáo chung. Hiện tại, vừa có trần lãi suất cho vay theo luật, vừa có trần lãi suất tiền gửi theo mệnh lệnh hành chính.
Tôi cho rằng, cần phải sớm chấm dứt các trần lãi suất nói trên để thực hiện lãi suất như trước đây. Đây là tiền đề để ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Phí Nhung - Nữ 35 tuổi - Kế toán:
Xin được hỏi các diễn giả, việc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng lãi suất cơ bản tiền VND và điều chỉnh biên độ tỷ giá VND/USD vừa qua, cùng với việc 8 ngân hàng lớn của Việt Nam cam kết đáp ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu chuyển tiền trong nước đã tác động trực tiếp tới thị trường USD tự do. Ngày hôm nay USD thị trường tự do đã giảm. Vậy còn thị trường vàng hiện nay cũng đang giảm liệu có phải từ tác động trên?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Thị trường ngoại tệ đang biến động theo chiều hướng tích cực do tác động của việc điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước và các biện pháp đồng bộ khác đang được triển khai thực hiện. Đối với thị trường vàng, giá vàng trong nước biến động theo sự lên xuống của giá vàng thế giới, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới (quy đổi theo VND) không lớn.
Trong những ngày gần đây, giá vàng trong nước không có biến động đột biến là do đã có tác động của cơ chế xuất nhập khẩu vàng, việc điều chỉnh tỷ giá, và sự ổn định tâm lý của thị trường.
Lê Thị Vân Khoa - Nữ 28 tuổi - Kế toán:
Theo tôi hiểu việc điều chỉnh lãi suất và tỷ giá sẽ tạo thuận lợi cho các ngân hàng cải thiện thanh khoản và thu hút thêm ngoại tệ. Điều đó cũng là một yếu tố có lợi cho nền kinh tế, nguồn vốn nội và ngoại tệ sẽ luân chuyển tốt hơn. Tuy nhiên phải có một độ trễ chính sách mới có tác dụng cụ thể, trong khi đó yếu tố tâm lý của thị trường thì luôn thường trực. Tôi cho rằng bên cạnh điều chỉnh chính sách cũng cần phải có những biện pháp về định hướng tâm lý thị trường, nhất là về thông tin, hay việc trấn áp các tin đồn, thông tin sai lệch. Xin được chia sẻ suy nghĩ với diễn đàn. Chúc buổi giao lưu thành công.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Điều bạn nói là đúng. Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng đã và đang cố gắng làm tốt công tác thông tin truyền thông tới người dân, doanh nghiệp và cả ra thị trường quốc tế để người dân và thị trường hiểu đúng chính sách, ủng hộ và thực hiện các hoạt động tiết kiệm, đầu tư, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần ổn định thị trường.
Thang Khung - Nam 40 tuổi - NĐT:
Nhiều người cho rằng chính sách tỷ giá và tăng lãi cơ bản tuy tốt cho nền kinh tế trong dài hạn. Nhưng chính nó cũng đã gián tiếp công nhận rằng nền kinh tế chúng ta đang đối mặt với một số bất ổn. Các chuyên gia có cho là như vậy hay không? Theo các chuyên gia thì các nhà đầu tư nên hành động như thế nào khi mà VND đang mất giá, giá cả thị trường đang tăng cao?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Tôi không nghĩ là kinh tế Việt Nam đang có sự bất ổn, tuy nhiên, có một số trục trặc do chính sách tài chính tiền tệ tạo ra. Hoặc là do những tác động của suy giảm kinh tế thế giới.
Vấn đề kinh tế vĩ mô lớn nhất hiện nay của Việt Nam chưa phải là lạm phát mà là tỷ giá hối đoái. Nếu Chính phủ tập trung nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn đề này một cách kịp thời thì kinh tế Việt Nam có thể phục hồi vững chắc.
VND mất giá và giá cả tăng cao ư? Tôi nghĩ VND có mất giá thật, điều này đã diễn ra từ lâu, nhưng do chúng ta chậm điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo thị trường nên lần này đã làm nhiều nhà đầu tư bị sốc. Còn giá cả thì theo tôi đang giảm chứ không tăng, đặc biệt là hàng lương thực thực phẩm. Năm 2008 tăng tới 32%, thì năm nay chỉ tăng 3%. Vì vậy có thể thấy lạm phát đang có chiều hướng giảm. Tuy nhiên do chính sách kích cầu thì lạm phát có thể quay lại. Nhưng theo tôi thì không lớn như bạn lo ngại.
Kinh tế Việt Nam về tổng thể vẫn là nền kinh tế tích cực, có đà phục hồi ổn định, không có bong bóng bất động sản, chứng khoán, tín dụng như Trung Quốc, đang được các nhà kinh tế quốc tế cảnh báo.
Chúc bạn có những quyết định đầu tư sáng suốt.
Phương Thanh Trần - Nữ 29 tuổi - Nhân viên:
Có ý kiến cho rằng nếu chúng ta tạo điều kiện để các sàn vàng hoạt động trong khuôn khổ pháp lý thì sẽ hạn chế được nhu cầu vàng vật chất, vì nhà đầu tư và người dân sẽ tham gia giao dịch vàng "ảo" trên sàn. Như vậy có thể hạn chế được nhập siêu. Nếu hạn chế sàn vàng hoạt động, hạn chế nhà đầu tư tham gia giao dịch vàng tại sàn trong nước, họ sẽ tham gia đầu tư tại sàn nước ngoài thông qua mở tài khoản ở nước ngoài, như vậy có thể làm chảy một lượng ngoại tệ lớn sang nước ngoài. Ý kiến của ông Bảo như nào ạ?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Những đánh giá cho thấy, hoạt động của các sàn vàng chưa mang lại hiệu quả thiết thực đối với nền kinh tế. Vì thế, Ngân hàng Nhà nướcđã có kiến nghị với Chính phủ các giải pháp về quản lý hoạt động của các sàn vàng, không để xảy ra những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội.
Việc các nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư trên các sàn vàng quốc tế phải tuân thủ các điều kiện chặt chẽ của pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài và phải được sự cho phép của các cơ quan chức năng.
Hiện nay, Nhà nước không khuyến khích hoạt động đầu tư này.
Vo Trong Khanh - Nam 30 tuổi - Nhan vien ngan hang:
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang bán ngoại tệ cho các ngân hàng để lấy tiền VND. Nếu Ngân hàng Nhà nước bán một số lưọng lớn ngoại tệ thì thị trường liên ngân hàng sẽ cực kỳ thiếu VND nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh vào dịp cuối năm và tết nguyên đán. Không biết Ngân hàng Nhà nước có chính sách hay phương thức gì để có thể khắc phục tình hình nêu trên. Hay đây là một cách thức hạn chế cung tiền và chống lạm phát?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Việc Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại có mục đích chủ yếu là can thiệp để ổn định tỷ giá và đương nhiên là có hút tiền từ lưu thông về.
Đồng thời với hoạt động này, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ, và các công cụ khác để hỗ trợ thanh khoản VND cho ngân hàng thương mại ở mức hợp lý, sao cho thanh khoản thị trường được đảm bảo và kiểm soát được lãi suất thị trường.
Kim Thu - Nữ 37 tuổi - KTV:
Tôi xin hỏi các diễn giả là vì sao Việt Nam không đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán để tránh lệ thuộc vào đồng USD và có nhiều biến động và khó khăn trong điều hành? Vì sao Ngân hàng Nhà nước không quy định biên độ tỷ giá giữa VND với các đồng tiền khác?
Ông Trương Văn Phước:
Việc lệ thuộc vào đồng Đô la Mỹ hay đa dạng hóa các ngoại tệ trong thanh toán về mặt hình thức thì có khác nhau, chứ về bản chất thì là một.
Vì sao? Vì tính tự do chuyển đổi (convertibility) của các ngoại tệ mạnh.
Giả sử bạn cần xuất khẩu gạo giá trị 1 triệu USD qua thị trường châu Âu, thì về nguyên tắc bạn có thể ký hợp đồng giá trị tương đương 666.000 Euro theo tỷ giá quy đổi 1 Euro = 1.50 USD. Nếu khi thu tiền xuất khẩu về mà Euro giảm xuống còn 1.40 USD thì giá trị xuất khẩu tương đương 924.000 USD, bạn đã bị thiệt hại 76.000 USD.
Trong khi những nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp nhập khẩu chủ yếu bằng đồng USD. Vậy ai bảo hiểm biến động tỷ giá này? Đó là nói thực tế với điều kiện của thị trường Việt Nam.
Chứ còn thế giới thì đồng USD vẫn là đồng tiền chủ yếu trong các giao dịch vốn, đầu tư tài chính, thanh toán thương mại... Cho nên việc lựa chọn đồng tiền trong thanh toán còn phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái. Nhìn chung, chọn thanh toán bằng đồng USD vẫn ít rủi ro hơn.
Trước sự biến động của tỷ giá đồng Đô la Mỹ so với VND nhiều người đã từng đặt ra vấn đề là quy định trần, biên độ giữa VND với các đồng tiền khác, như ý kiến của bạn. Rất tiếc, điều này không làm được.
Lý do là vì: chẳng hạn tỷ giá Euro/VND được xác định thông qua tỷ giá Euro/USD nhân với tỷ giá USD/VND. Tỷ giá USD/VND có thể tương đối ổn định, chứ còn Euro/USD biến động từ 3% - 5% một ngày thì làm sao mà giữ cho tỷ giá Euro/VND nằm trong biên độ cho phép được.
Vả lại đề ra tỷ giá này cũng là vô nghĩa vì nó vi phạm nguyên tắc "tự do chuyển đổi" của các ngoại tệ mạnh, có quy định cũng như không.
Nguyen Thanh Tan - Nam 32 tuổi - Nhan vien:
Xin Tiến sĩ Nghĩa cho biết quan điểm của mình trong tình hình hiện tại của nền kinh tế Việt Nam thì với các điều kiện nào xẩy ra thì Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tăng thêm lãi suất cơ bản của lần gần nhất?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, theo tôi nghĩ khi Chính phủ chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% thì lãi suất cho vay sẽ tăng lên. Ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, doanh nghiệp vay vốn cũng dễ hơn và đương nhiên là lãi suất cho vay thực tế sẽ tăng lên.
Nhưng điều đó không có nghĩa là cần phải tăng lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, áp lực tăng lãi suất chủ yếu là từ lạm phát hoặc là từ khả năng huy động vốn của hệ thống ngân hàng và nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự báo từ 6 đến 6,5% cho năm 2010 thì áp lực này chưa lớn, it nhất là cho đến nửa đầu năm 2010.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Xin hỏi thêm ông Lý Xuân Hải: ACB có chủ trương cơ cấu lại hoạt động của mình theo hướng tạo ra thu nhập chính từ tín dụng, là loại thu nhập tương đối ổn định hơn so với các hoạt động khác như kinh doanh vàng, chứng khoán... không, mặc dù chúng tôi nhận thấy ACB rất giỏi trong việc nắm bắt các cơ hội thị trường. Chúng tôi rất ngạc nhiên về kết quả hoạt động kinh doanh chứng khoán của ACB trong quý 3, rất khiêm tốn, chỉ được vài tỷ đồng trong khi các công ty chứng khoán lại báo cáo lợi nhuận rất lớn trong thời gian này và thị trường chứng khoán cũng rất tốt trong quý 3. Ông Hải có thể cho biết tại sao không và dự kiến kết quả từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, vàng, ngoại tệ sẽ đóng góp như thế nào vào kết quả kinh doanh quý 4 của ACB?
Ông Lý Xuân Hải:
Các nguồn thu nhập chính của ACB là từ tín dụng, dịch vụ và kinh doanh liên ngân hàng (bao gồm hoạt động tiền gửi, kinh doanh trái phiếu, kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng).
Mong muốn của chúng tôi là hoạt động tín dụng sẽ chiếm không quá 55%-60% tổng tài sản để luôn có thanh khoản cao... và thu nhập từ hoạt động tín dụng, thu nhập ròng từ lãi chỉ chiếm không quá 50% tổng nguồn thu. Phải nói thêm là hoạt động tín dụng có rủi ro không nhỏ, chịu ảnh hưởng của các yếu tố vi mô lớn... nên nguồn thu nếu chỉ phụ thuộc vào tín dụng sẽ thiếu ổn định và bền vững.
Các nguồn thu từ dịch vụ sẽ ổn định hơn nên chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư để nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ của mình.
Hoạt động liên ngân hàng và kinh doanh trái phiếu nhằm 2 mục đích: đảm bảo thanh khoản và sinh lợi cho ngân hàng. Thực tế các năm qua chỉ ra rằng hoạt động kinh doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng sẽ luôn ổn định và đem lại sự vững mạnh cho ngân hàng.
Nguồn thu từ hoạt động của Trung tâm Giao dịch vàng sẽ chỉ là một phần trong các nguồn thu từ dịch vụ của ACB. Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh vàng trong và ngoài nước và các sản phẩm kèo theo sẽ luôn ổn dịnh trong điều kiện ngày hôm nay nên chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động này.
Việc điều chỉnh "thể hiện chủ trương điều hành linh hoạt"
Minh Hoàng - Nam 32 tuổi - Phân tích tài chính:
Tôi xin hỏi một câu hỏi cho ông Bảo: Việc các ông đăng đàn lên và tuyên bố sẽ giữ nguyên mức lãi suất cơ bản cho đến hết năm 2009 rồi lại 'đột ngột' tăng mức lãi suất cơ bản này nên liệu có làm cho thị trường tiền tệ ổn định hay không? Nhiều cá nhân cũng như người dân cũng đã gửi tiền tiết kiệm với một mức lãi suất thấp, đến nay mức lãi suất này được tăng lên, thiệt thòi lại thiệt về người dân. Vậy, theo các ông việc can thiệp một cách 'không nhẹ nhàng' vào thị trường và 'gây sốc' như vậy có giúp thị trường ổn định được không?
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Với các giải pháp kích thích kinh tế nhằm ngăn chặn suy giảm tăng trưởng của Chính phủ được thực hiện từ đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước có chủ trương ổn định lãi suất cơ bản trong năm 2009.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta đã hội nhập, có độ mở lớn và chịu tác động tổng hợp của các yếu tố của cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Từ giữa tháng 11, các giải pháp kích thích kinh tế, bên cạnh những tác động tích cực đã nảy sinh những tác động chưa tích cực, như sức ép làm tăng tín dụng, tỷ giá ở mức cao và tâm lý thị trường không thuận lợi; giá vàng và một số nguyên nhiên liệu cơ bản có xu hướng tăng, tác động không thuận lợi đối với thị trường tiền tệ trong nước.
Trước tình hình đó, theo chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng đồng thời cả tỷ giá và lãi suất. Sự phản ứng tích cực của thị trường trong những ngày gần đây đã cho thấy sự điều chỉnh này là hợp lý.
Nếu không điều chỉnh hoặc điều chỉnh chậm hơn, thì thị trường sẽ diễn biến phức tạp và không ngoại trừ hậu quả xấu xảy ra. Khi đó, lợi ích của nền kinh tế, của các nhà đầu tư và cộng đồng dân cư không được đảm bảo.
Như thế, việc điều chỉnh tăng lãi suất và tỷ giá vào cuối tháng 11 là sự thể hiện nhất quán chủ trương điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ trên cơ sở các điều kiện thực tế, vì lợi ích chung.
Thúy Phạm - Nữ 28 tuổi - Chuyên viên phân tích thị trường:
Trong thời gian qua, rủi ro về mặt chính sách của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt tăng cao và có khả năng khiến nhu cầu đầu tư vào thị trường Việt Nam của họ giảm mạnh. Thông tin về Việt Nam giảm giá đồng tiền đang lan tỏa trên các kênh thông tin của thế giới, vậy Chính phủ Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục đưa ra biện pháp nào để bình ổn thị trường, khôi phục lại lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, tôi chia sẻ với bạn nhận xét này. Bằng chứng là xếp hạng cuả Việt Nam về kinh tế vĩ mô có sự sụt giảm. Tuy nhiên các nhà đầu tư nước ngoài thường nhìn vào triển vọng trung hạn, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn.
Các nhà đầu tư cũng đã đưa ra nhiều kiến nghị rất đáng tham khảo. Như, điều chỉnh lãi suất giữa VND và ngoại tệ một cách hợp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thủ tục tài chính để giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, giảm thâm hụt thương mại, cho phép cho vay ngoại tệ với những nhà xuất khẩu, mở rộng cho vay tiêu dùng...
Chính phủ đã và đang nghiên cứu để áp dụng các biện pháp nói trên một cách đồng bộ, phù hợp. Tôi cho rằng trong điều kiện hiện nay thì Chính phủ có khả năng làm được điều đó.
Chúc bạn sức khỏe.
"Khi bạn uống thuốc phòng bệnh thì có nghĩa là bệnh chưa đến"
Nguyễn Cao Anh - Nam 34 tuổi - Giảng viên:
Xin ông Bảo giải thích 2 chính sách: - Tháng 3/2007, Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách đã rút lượng tiền lưu thông 20.300 tỷ - Tháng 11/2009, Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Trân trọng.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo:
Chào bạn.
Việc phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ VND vào tháng 1/2008 là giải pháp phù hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát.
Còn giải pháp điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản 1% vào cuối tháng 11 vừa qua là phù hợp với chủ trường điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng nhằm kiểm soát tín dụng ở mức hợp lý, góp phần cân bằng cung cầu vốn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô.
Nguyễn Vĩnh Đan - Nam 35 tuổi - Ngân hàng:
Thưa ông Nghĩa, ông có nghĩ rằng chúng ta chỉ cần 8 đến 10 ngân hàng là đủ hay không? Hiện nay, có quá nhiều ngân hàng, họ huy động vốn và cho vay vô tội vạ làm cho Ngân hàng Nhà nước cứ phải chạy theo họ. Họ chính là một trong những tấc nhân chính gây nên bất ổn trong chính sách lãi suất hiện nay? Ngân hàng Nhà nước có thể tuyên bố, là tiền gởi ở các tổ chức tín dụng chỉ đươc bảo đảm tối đa như được bảo hiểm, như vây sẽ lành mạnh hoá các hoạt động huy động vốn của các ngân hàng nhỏ khác, vì người gởi tiền sẽ suy nghĩ hết sức cẩn trọng khi bỏ tiền vào một ngân hàng không tên tuổi? Làm như vậy sẽ làm cho hoạt động ngân hàng được lành mạnh hơn?
Ông Lê Xuân Nghĩa:
Chào bạn, tôi không nghĩ như bạn.
Vấn đề không phải là số lượng các ngân hàng mà là chính sách hợp lý và giám sát chặt chẽ. Một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ của Việt Nam thường chạy theo lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông nên rất ít quan tâm đến những tài sản đảm bảo thanh khoản vững chắc cho hoạt động của họ.
Ví dụ họ thiếu các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc hay tín phiếu của ngân hàng Nhà nước để tham gia trực tiếp vào thị trường mở hoặc cửa sổ chiết khấu, ngoại trừ một số ngân hàng vừa qua đã mua vét trái phiếu Chính phủ bán tháo của các nhà đầu tư nước ngoài để kiếm lời.
Tôi được biết ở nhiều nước có số lượng ngân hàng rất lớn, Mỹ có trên 6 nghìn, Đức hơn 2.500, nhiều nước bình quân 1 nghìn dân có 1 chi nhánh ngân hàng. Việt Nam hiện nay bình quân 17 nghìn dân có 1 chi nhánh ngân hàng, thấp nhất là ở Tp.HCM, 8 nghìn dân có 1 chi nhánh.
Tuy nhiên, số lượng ngân hàng của Việt Nam có thể là lớn so với khả năng giám sát và quản lý của chính các ngân hàng thương mại và của các cơ quan hữu quan khác. Vì vậy, cần cho phép mua lại, sáp nhập các ngân hàng để xóa bỏ những ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, đồng thời tăng cường giám sát các ngân hàng này theo các chuẩn mực an toàn quốc tế.
Nguyễn Ngọc Phương - Nam 50 tuổi - Cán bộ:
Xin chào các quý vị. Tôi có một câu hỏi xin gửi đến quý vị như sau: Tỷ giá chịu nhiều tác động, trong điều kiện kinh tế hiện nay theo các vị thì mức tỷ giá nào giữa VND và USD là hợp lý?
Ông Trương Văn Phước:
Chào bạn,
Cứ xem tỷ giá như là một biến số (X). Thì biến số này nhằm để đi tìm lời giải cho bài toán tối ưu, trong đó có các hàm số thể hiện sự ràng buộc đối với tỷ giá.
Giải bài toán này không khó. Khó khăn hơn rất nhiều đó là xây dựng các quan hệ liên thuộc giữa các biến số khác trong bài toán tối ưu, cũng như các mong muốn mà những nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô thể hiện trong các ràng buộc đó là những mong muốn gì. Đó là về mặt lý thuyết.
Còn trong thực tế, có hai cách tiếp cận để có thể dự báo xu hướng của tỷ giá hối đoái:
- Dựa trên cung - cầu, nếu cầu luôn lớn hơn cung thì áp lực mất giá đông nội tệ là điều dễ nhìn thấy (nhưng cũng cần lưu ý các chính sách can thiệp tạo cung của các ngân hàng trung ương);
- Dựa trên các yếu tố cơ bản của nền kinh tế, nếu chênh lệch lạm phát của Việt Nam với các nước mà dương (tức CPI của Việt Nam lớn hơn) thì VND có xu hướng mất giá với một mức độ tương quan với chênh lệch này. Ngoài ra, nếu các đồng tiền của các đối tác quốc gia mà lên giá với Đô la Mỹ thì VND cũng được hưởng lợi theo xu hướng lên giá này.
Nhưng cũng cần phải lựa chọn một năm cơ sở để làm nền tảng cho sự tính toán mức tỷ giá hợp lý. Còn năm nào là năm cơ sở lại là một bài toán khác nữa...
Nhưng ý kiến riêng của tôi thì cho rằng, với chênh lệch lãi suất khá lớn giữa VND và USD hiện nay xấp xỉ 10%/năm có lợi cho VND, lạm phát ở mức không cao, sự suy yếu nặng nề của đồng USD trên thị trường quốc tế thì mức tỷ giá hiện nay là tương đối phù hợp, ít nhất là trong vòng 6 tháng tới. Tất nhiên sau đó còn phải xem xét thêm các yếu tố của nền kinh tế thì mới "đoán" ra được phần nào.
Nguyễn Thanh Phương - Nam 20 tuổi - Sinh viên:
Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010. Cho em hỏi nếu nói như vậy thì tại nước ta lạm phát có dấu hiệu quay trở lại đúng không?
Ông Trương Văn Phước:
Khi bạn uống thuốc phòng bệnh thì có nghĩa là bệnh chưa đến. Cũng có thể đến mà cũng có thể không. Giả sử có đến thì liều lượng nặng nhẹ còn tùy. Đó mới là vấn đề khó khăn của nghề y khoa bác sĩ. Nhưng khi bác sĩ cho toa thì ít ra họ cũng dựa trên một vài triệu chứng lâm sàng nào đó.
Chính sách hỗ trợ lãi suất vừa qua đã giúp các doanh nghiệp, người dân thuộc các đối tượng được thụ hưởng, được tiếp cận vốn tín dụng dễ hơn theo nghĩa là vay vốn với lãi suất thấp hơn (chứ không phải các ngân hàng thương mại hạ thấp điều kiện tín dụng) đã làm cho tăng trưởng tín dụng cao hơn. Các chính sách về đầu tư của Nhà nước cũng được mở rộng hơn.
Nhờ đó mà Việt Nam mới ngăn ngừa được suy giảm kinh tế. Đây là những biểu hiện để có thể suy đoán rằng lạm phát cao hơn có thể trở lại. Nhưng thực ra lạm phát ở mức độ nào còn phụ thuộc ở nhiều nhân tố khác nữa. Đặc biệt mặt bằng giá quốc tế ngày nay đã có tác động khá lớn đối với lạm phát của các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, mà năm nay mặt bằng giá đó là khá thấp so với năm 2008.
Dĩ nhiên, lý thuyết kinh tế còn nói đến nhiều nguyên nhân khác... nhưng có thể nói việc đề ra các chính sách vĩ mô thận trọng và sự ứng xử linh hoạt trước các chính sách đó mới là điều quan trọng nhất.
Ý kiến rất riêng của tôi là nếu có những chính sách rất phù hợp thì việc kiểm soát lạm phát trong năm 2010 là điều hoàn toàn có thể làm được, trừ phi thị trường thế giới có những biến động rất mạnh để tạo ra những mặt bằng giá cao hơn so với năm 2008 thì các chính sách vĩ mô phải được xem xét, hiệu chỉnh kịp thời.
Nguyen Hang Nga - 32 tuổi:
Câu hỏi cho ông Lý Xuân Hải: Theo ông lãi suất cơ bản tăng lên 8% đã đủ để đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng chưa? Liệu từ nay đến quý 1/2010, Ngân hàng Nhà nước có phải tiếp tục tăng lãi suất cơ bản vì lý do tương tự như lần tăng này. Tương tự là tỷ giá VND/USD, đã đủ để đảm bảo không có các đợt giảm giá tiếp theo chưa?
Ông Lý Xuân Hải:
1. Thanh khoản của thị trường không phụ thuộc trực tiếp vào lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu, chính sách tiền tệnới lỏng hay thắt chặt, quy mô hoạt động thị trường mở, lãi suất, kỳ vọng của thị trường...
2. Ngày hôm nay, việc nâng lãi suất cơ bản chính là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện thắt lại chính sách tiền tệ trên thực tế để ngăn ngừa lạm phát. Điều này sẽ làm các ngân hàng thương mại phải cẩn trọng hơn trong việc sử dụng vốn, hạ tốc độ tăng trưởng tín dụng.
3. Trong điều kiện có một sốyêu cầumang tính nghiêm ngặt hơn trong cấu trúc huyđộng và sử dụng vốn như: không dùng vốn liên ngân hàng để cho vay, hạn chế và thắt chặt việc sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn... chúng tôi cho rằng việc huy động thời gian qua có hơi nóng là vì một số các ngân hàng thương mại đang đẩy mạnh huy động để đáp ứng các yêu cầu này. Khi các yêu cầu đã được đáp ứng, sức "nóng" sẽ giảm bớt phần nào.
4. Trong điều kiện hiện nay chúng tôi cho rằng thị trường sẽ không bị thiếu thanh khoản do Ngân hàng Nhà nước đủ các công cụ vàkinh nghiệm để một mặt đảm bảo thanh khoản cho thị trường, mặt kháckhông làm phương hại đến các mục tiêu dài hạ mà chính sách tiền tệ đang nhắm đến.
5. Công cụ chính sách tiền tệ (bao gồm lãi suất và tỷ giá) thường có giá trị trong ngắn hạn trong khi nhắm đến mục tiêu dài hạn là ổn định giá cả (hạn chế lạm phát) và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế (tạo công ăn việc làm). Do vậy có thể khẳng định trong thời gian tới lãi suất sẽ không tăng hơn nhiều so với hiện nay, tỷ giá sẽ ít có biến động, thị trường sẽ bình ổn.