Vì sao nhiều người có lương hưu thấp?
Mặc dù tỷ lệ hưởng lương hưu khá cao, tối đa 75%, nhưng do mức đóng thấp; thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn; nghỉ hưu trước tuổi nhiều; đóng không đúng mức tiền lương, thu nhập thực tế tại một số đơn vị sử dụng lao động, dẫn đến mức hưởng bình quân hiện nay của nhiều người lao động còn thấp…
Theo quy định hiện nay, nếu người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đủ 35 năm đối với nam, 30 năm đối với nữ, khi đến tuổi nghỉ hưu sẽ được hưởng 75% lương mỗi tháng.
MỨC ĐÓNG THẤP, THỜI GIAN ĐÓNG NGẮN, LƯƠNG HƯU KHÓ CAO
Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết, hiện nay, bên cạnh những trường hợp có lương hưu cao, nước ta cũng có nhiều người hưởng mức lương hưu thấp. Các trường hợp này chủ yếu là: những người nghỉ hưu từ quỹ bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An chuyển sang bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Quyết định 41/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; cán bộ xã không chuyên trách; người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn mức đóng bảo hiểm xã hội ở mức thấp nhất…
Mức lương hưu thấp nhất tập trung vào nhóm những người nông dân ở Nghệ An tham gia chương trình thí điểm đóng bảo hiểm xã hội cho nông dân. Đến năm 2009, khi bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An được chuyển đổi sang bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Quyết định 41/2009/QĐ-TTg, nhiều trường hợp tiếp tục tham gia “lưới” an sinh qua hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Khi nghỉ hưu, do có thời gian đóng ngắn, mức đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng thấp (có thời điểm chỉ là 10.000 đồng/tháng) nên các trường hợp này có mức hưởng lương hưu thấp.
Ngoài ra, cán bộ xã không chuyên trách cũng thuộc nhóm đối tượng có lương hưu thấp. Nhóm này có mức đóng bảo hiểm xã hội chỉ bằng mức lương cơ sở, thời gian đóng bảo hiểm xã hội hưởng lương hưu ngắn (từ đủ 15 năm đến 20 năm).
Đồng thời, theo quy định khi nghỉ hưu, nếu trường hợp không có đủ 20 năm trở lên đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (không bao gồm thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo diện người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn), có mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở thì lương hưu không được bù đủ bằng mức lương cơ sở. Năm 2021, mức lương hưu bình quân của nhóm cán bộ xã không chuyên trách là khoảng 1,3 triệu đồng/tháng.
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (do người tham gia lựa chọn) thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở tại thời điểm đóng.
Phần lớn người dân lựa chọn mức thu nhập tương ứng mức chuẩn hộ nghèo khu vực (trước năm 2022, mức chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn là 700 nghìn đồng, từ năm 2022 là 1,5 triệu đồng) để đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Thực tế, đại đa số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ đóng bảo hiểm xã hội đến khi đủ 20 năm để đủ điều kiện về thời gian tối thiểu để được hưởng lương hưu. Do mức đóng bảo hiểm xã hội thấp, thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn nên mức hưởng bình quân của nhóm này thấp.
Bên cạnh đó, nhiều người lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc do còn thiếu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu đã lựa chọn mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hằng tháng hoặc một lần cho thời gian còn thiếu ở mức thấp, vì vậy mức hưởng lương hưu của họ cũng sẽ thấp theo.
Hiện cả nước đang có hơn 3,3 triệu người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, nhiều doanh nghiệp “lách Luật” thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động không đúng với mức tiền lương, thu nhập thực tế của người lao động. Tại một số đơn vị, thu nhập để làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động luôn ở mức thấp nhất, dẫn đến mức hưởng bình quân của người lao động sẽ thấp khi nghỉ hưu.
Qua thực trạng trên cho thấy, mặc dù tỷ lệ % hưởng lương hưu khá cao (tối đa 75%) nhưng do mức đóng thấp; thời gian đóng bảo hiểm xã hội hưởng lương hưu ngắn, tình trạng người lao động (đặc biệt là người lao động làm việc ngoài khu vực Nhà nước) nghỉ hưu trước tuổi nhiều, đóng không đúng mức tiền lương, thu nhập thực tế tại một số đơn vị sử dụng lao động… dẫn đến mức hưởng bình quân hiện nay của nhiều người lao động còn thấp.
SỬA ĐỔI TIỀN LƯƠNG ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỂ CÓ MỨC HƯỞNG LƯƠNG HƯU TỐT HƠN
Hiện nay, Luật Bảo hiểm xã hội quy định, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động (bao gồm cả lương và các phụ cấp). Đối với một số khoản phúc lợi (hỗ trợ) người lao động của đơn vị sử dụng lao động có tính chất thường xuyên, ổn định, như: hỗ trợ tiền xăng xe, điện thoại, ăn trưa, tiền nhà…pháp luật hiện hành quy định không dùng làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội.
Lợi dụng quy định này, một số doanh nghiệp “lách Luật” chia nhỏ các khoản phụ cấp thành các khoản hỗ trợ này để trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội.
Vì vậy, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đề xuất các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu phương án khi sửa đổi tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo hướng: người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương tháng, bao gồm: mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác được trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương.
Ngoài ra, cần nghiên cứu để hài hòa 3 loại thu nhập của người lao động và có căn cứ pháp lý xác định rõ thu nhập của người lao động làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, tránh tình trạng chênh lệch quá lớn giữa thu nhập của người lao động để quyết toán thuế và thu nhập thực tế chi trả cho người lao động tạo điều kiện đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người lao động khi nghỉ hưu.
Trước thực trạng một số đơn vị sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội không đúng mức thu nhập thực tế của người lao động theo mức tiền lương được hưởng, để đảm bảo quyền lợi đầy đủ cho bản thân, Bảo hiểm xã hội Việt Nam lưu ý, khi ký hợp đồng lao động, người lao động cần chú ý đến thỏa thuận về tiền lương được hưởng, tiền lương đóng bảo hiểm xã hội trong hợp đồng.
Đồng thời, có kiến nghị với đơn vị nếu mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của mình thấp so với tiền lương được hưởng hoặc thấp hơn so với quy định về mức lương tối thiểu vùng.