
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Ba, 07/10/2025
Vũ Khuê
27/06/2024, 12:45
Cả nước có gần 1 triệu doanh nghiệp, nhưng số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chiếm 0,001% tổng doanh nghiệp trên cả nước...
Chia sẻ tại diễn đàn kinh doanh "Đa dạng hoá chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao khả năng thích ứng cho doanh nghiệp” vào chiều 26/6, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết mặc dù chuỗi cung ứng đã dần được tái cấu trúc, nhưng thực tế đa số các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, nước ta hiện nay có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng.
Dẫn số liệu từ Tổng cục Thống kê, TS Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, cho hay trong gần 1 triệu doanh nghiệp chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tức chỉ chiếm 0,001%.
"Và theo số liệu của Cục Công nghiệp thuộc Bộ Công Thương, trong 5.000 doanh nghiệp này chỉ có 100 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 1. Sau gần 40 năm phát triển doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam thực sự trở thành một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu là rất thấp”, TS Bình nhận định.
Phân tích con số “tiết kiệm” trên, TS Bình cho biết nghiên cứu của Economica Vietnam đã chỉ ra một số khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt đang gặp phải khi gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là việc đáp ứng những yêu cầu hết sức khắt khe, yêu cầu cao về phương diện kỹ thuật, quản trị và thời gian giao hàng của doanh nghiệp đầu chuỗi.
"Họ yêu cầu doanh nghiệp Việt phải thiết lập hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, lao động, điều kiện về vệ sinh an toàn lao động. Những yêu cầu này không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được", TS Bình nêu thực tế .
Một điểm nghẽn nữa là yêu cầu về sản xuất xanh từ thị trường quốc tế ngày càng cao, buộc các quốc gia khác khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu phải đẩy nhanh quá trình xanh hoá sản xuất.
Để đáp ứng những yêu cầu trên, doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều, trong khi đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn và phải liên tục đáp ứng yêu cầu của đầu chuỗi.
Hơn nữa, để bỏ ra số tiền vốn lớn, doanh nghiệp phải có niềm tin rất lớn vào môi trường kinh doanh, khi họ đầu tư sẽ là an toàn, sẽ không có quá nhiều sự thay đổi về cơ chế chính sách, không có sự thay đổi về quy định pháp luật.
Theo TS Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế thuộc Ban Kinh tế Trung ương, thách thức lớn nhất khi tham gia chuỗi là nguồn nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề và cả lao động phổ thông.
Ngoài ra, thách thức trong kết nối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Yêu cầu của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp địa phương là tính ổn định và chất lượng cao. Doanh nghiệp trong nước muốn tham gia và kết nối vào chuỗi cung ứng cần đầu tư vào con người, công nghệ.
Bổ sung thêm, ông Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương thuộc Bộ Công Thương, cho rằng còn có những khó khăn trong quá trình thực thi chính sách hỗ trợ, như nhận thức, tư duy, cách nghĩ, tầm nhìn của các nhà làm chính sách. Thiếu minh bạch và bình đẳng, thiếu tính ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu chặt chẽ.
Bên cạnh đó, chính sách thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng thực thi không hiệu quả. Chưa có những cơ chế, chính sách riêng cho khuyến khích phát triển logistics xuất khẩu.
Chuỗi sản xuất, xuất khẩu còn gặp vướng mắc theo các quy định của pháp luật hiện hành. Nhận thức và năng lực thực thi chính sách thúc đẩy xuất khẩu từ phía các doanh cũng là hạn chế.
Để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, theo ông Bình, cần hoàn thiện thể chế, chính sách; thủ tục hành chính, thủ tục xuất nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành cần phải được cải cách, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa để tạo thuận lợi hoá thương mại hơn, từ đó việc gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu mới dễ dàng hơn trước đây.
Bên cạnh đó, cần có hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực công nghệ. Họ cần trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trung tâm khảo thí… để đáp ứng yêu cầu về ISO, tiêu chuẩn chất lượng. Hiện nay những hệ sinh thái vẫn chưa có sự hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp, đặc biệt những ngành có nhu cầu về vốn lớn như năng lượng tái tạo, giao thông xanh…
Ngoài ra, cần phải đổi mới cách thức tiếp cận hỗ trợ doanh nghiệp. Ông Bình cho rằng, trong số các chính sách hỗ trợ của Nhà nước hiện nay, rất ít trong số này đã phát huy hiệu quả. Đổi mới thể chế, quy định pháp luật giúp cho con đường gia nhập chuỗi cung ứng thuận lợi hơn, rộng mở hơn. Do đó, tư duy hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần đổi mới, bảo đảm hỗ trợ doanh nghiệp một cách trọng tâm, trọng điểm hơn nữa.
Hiện nay, khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại và đặc biệt là cơ hội mới bắt đầu xuất hiện, có sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu, điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực nội tại, phải vươn ra thị trường quốc tế và cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài theo đúng nguyên tắc thị trường.
Đại diện Economica Vietnam cho rằng việc gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực tự thân của cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nỗ lực này sẽ thuận lợi, dễ dàng hơn rất nhiều nếu các điều kiện về mặt thể chế, môi trường kinh doanh, quy định pháp luật dễ dàng hơn, thuận lợi hơn cho quá trình nỗ lực tự thân của doanh nghiệp.
Chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, có giá trị gia tăng cao, tương lai của thế giới và cũng là tương lai của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ sắp tới, như công nghiệp bán dẫn, chip, năng lượng xanh, y tế, chăm sóc sức khoẻ….
Trong bối cảnh hiện nay, chính sách hỗ trợ phải theo hướng: trả lại không gian cho thị trường thông qua các biện pháp hỗ trợ. Nhiều biện pháp hỗ trợ hiện nay theo hơi hướng cho không, bao cấp, điều đó rất cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, tuy nhiên, trong thời điểm này cần điều chỉnh lại cách thức này.
Những chính sách mang tính bao cấp, hỗ trợ miễn giảm trong thời gian quá dài cũng nên thu hẹp dần quy mô hay về cường độ, để nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, theo đúng quy luật vốn có của nó. Từ đó doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật thị trường, giúp cho thị trường phân bổ được nguồn lực trên nền kinh tế một cách tối ưu hơn, hiệu quả hơn. Cũng chính điều này sẽ giúp các doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn.
Dầu thực vật tinh luyện (dầu cọ, đậu nành, hướng dương...) là nguyên liệu thiết yếu trong ngành công nghiệp thực phẩm. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) cụ thể cho loại dầu này, nên các doanh nghiệp vẫn đang phải áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) chung cho dầu thực vật như TCVN 7597:2018, hoặc các quy chuẩn chung như QCVN 8- 1:2011/BYT (ô nhiễm độc tố vi nấm) và QCVN 8-2:2011/BYT (kim loại nặng)…
Tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 9 tháng của Việt Nam năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước, khẳng định đà phục hồi mạnh mẽ của khu vực nông nghiệp trong bối cảnh thương mại toàn cầu còn nhiều biến động. Tổng cán cân thương mại nông, lâm, thủy sản 3 quý đạt thặng dư 15,93 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2024…
Việc tổ chức Hội chợ mùa Thu 2025 (Hội chợ) với quy mô lớn là rất cần thiết. Hội chợ sẽ là kênh xúc tiến thương mại tập trung, nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mở rộng xuất nhập khẩu, thu hút đông đảo doanh nghiệp, người tiêu dùng tham gia, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt trên 8%.
Tập đoàn Vingroup công bố thành lập Công ty Cổ phần Sản xuất và Kinh doanh VinMetal chính thức gia nhập lĩnh vực công nghiệp luyện kim, mở rộng trụ cột Công nghiệp – Công nghệ hiện tại. Mục tiêu của Công ty là đáp ứng nhu cầu nội tại của hệ sinh thái Vingroup, đồng thời tham gia thúc đẩy phát triển công nghiệp nặng tại Việt Nam.
Bất động sản
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: