Xuất khẩu gạo đã khó càng khó hơn
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) không cho thương nhân xuất khẩu gạo vào một số thị trường
Ngày 6/6/2017, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã có Công văn số 164/CV/HHLTVN gửi các thương nhân xuất khẩu gạo, trong đó nêu rõ, do hai hai công ty Vinafood1 và Vinafood2 hiện đang giao dịch với thị trường Bangladesh, Malaysia và chuẩn bị dự thầu thị trường Philippines, vì vậy, yêu cầu các thương nhân không được giao dịch với các thị trường trên, nếu không sẽ báo cáo Bộ Công Thương xử lý.
Theo đó, Công văn số 164/CV/HHLTVN ghi rõ, VFA thông báo Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood1) và Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood2) là hai đầu mối được Chính phủ chỉ định, đang giao dịch ký kết hợp đồng G2G.
Để chuẩn bị nguồn hàng và đảm bảo hiệu quả
cho việc ký kết và thực hiện các hợp đồng G2G, đề nghị các thương nhân xuất khẩu gạo
không được giao dịch, ký kết các hợp đồng xuất khẩu gạo hoặc để bên mua tái xuất gạo
vào các thị trường: Bangladesh, Malaysia, Philippines.
Lệnh cấm này thực thi
trong thời gian từ nay đến khi hai Tổng công ty nêu trên kết thúc giao dịch và ký
kết hợp đồng.
Công văn này đang khiến cộng đồng doanh nghiệp doanh nghiệp xuất khẩu gạo bức
xúc. Đây không phải lần đầu tiên, mà đã nhiều lần VFA ban hành lệnh cấm tương tự
như vậy, ở các thị trường Iraq, Cuba, Malaysia, Indonesia và Philippines...
Một
doanh nghiệp xuất khẩu gạo lên tiếng: chúng tôi không phản đối những quy định của Nhà nước, tuy
nhiên, trong bối cảnh thị trường xuất khẩu gạo đang gặp rất nhiều khó khăn, doanh nghiệp phải cạnh
tranh quyết liệt với các nước thì lệnh cấm trên càng làm tình hình khó khăn
thêm.
Nhận định về hoạt động xuất khẩu gạo do VFA cầm trịch, TS. Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ cho hay, VFA thường ngăn cản các doanh nghiệp ký kết hợp đồng thương mại bán gạo vào các nước có đấu thầu nhập khẩu gạo theo hợp đồng chính phủ khối lượng lớn, tạo đặc quyền cho một số doanh nghiệp thực hiện hợp đồng G2G.
“Các doanh nghiệp thương mại gạo nhà nước thường phụ thuộc rất nhiều vào hợp đồng chính
phủ xưa nay. Do có hàng rào che chắn của VFA nên họ không phấn đấu lắm với cạnh
tranh và nỗ lực riêng để xây dựng năng lực cho chính họ. Bởi vậy, khi thị trường
thăng hoa, phát triển theo nhu cầu quốc tế tăng lên thì họ dễ dàng bán được gạo,
còn khi thị trường suy yếu thì họ gặp bế tắc. Tình trạng này lặp đi lặp lại rất
nhiều năm cho tới bây giờ cũng không thay đổi, khiến ngành gạo suy yếu kéo dài
và nông dân càng thêm khó khăn...”, TS. Võ Hùng Dũng nói.
Viện Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, Nghị định 109/CP ban hành năm 2010 đến nay đã gần 7 năm thực hiện, đang bộc lộ nhiều bất cập, cần sửa đổi để tạo động lực phát triển cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nói riêng và ngành lúa gạo nói chung.
TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR chỉ ra rằng, do chỉ có một số
doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu gạo, trong khi lượng cung dư thừa, sản xuất trong nước quá lớn
nên nhiều thương nhân nhỏ phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch để cân bằng lượng
cung bị dư thừa. Hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch này chiếm tỷ trọng lớn trong quy mô
xuất khẩu, gây ra nhiều rủi ro tiềm ẩn cho thị trường gạo Việt Nam.
“Không chỉ vấn đề về “giấy phép”, chính sách xuất khẩu gạo của Việt
Nam còn tạo ra nhiều bó buộc khác về đầu ra cho doanh nghiệp tư nhân. Thông tư
44/2010/TT-BCT, hướng dẫn chi tiết một số điều của Nghị định 109/CP quy định
thương nhân không được giao dịch, ký kết hợp đồng xuất khẩu gạo hoặc để bên mua tái xuất
gạo vào thị trường có hợp đồng tập trung trong thời gian có giao dịch G2G; trừ
khi được Bộ Công Thương xem xét chấp thuận bằng văn bản.
Như vậy, kinh doanh xuất khẩu gạo của nhiều doanh nghiệp tư nhân chỉ được phép vào các thị trường nhỏ hoặc mới, trong
khi các thị trường lớn, với các đối tác lớn, có thỏa thuận cấp Chính phủ thì được
quản lý chặt theo quy chế tập trung”, TS. Nguyễn Đức Thành nhận định.
Từ thực tế đó, VEPR đề xuất, bãi bỏ các điều kiện về việc doanh nghiệp gạo phải có kho, cơ sở xay, xát thóc, gạo cũng như quy định về địa điểm đặt kho, máy xay xát và việc phải duy trì dự trữ lưu thông tối thiểu tương đương 10% số lượng gạo mà thương nhân đã xuất khẩu trong 6 tháng trước đó.
VEPR cũng kiến nghị, bãi bỏ các quy định về vùng nguyên liệu của doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Thay vào đó là tập trung quản lý chất lượng gạo đầu ra, theo đó, gạo sản xuất ra phải đảm bảo an toàn, tiêu chuẩn kỹ thuật về hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh.
VEPR cũng đề xuất, bãi bỏ giá sàn xuất khẩu hoặc giá sàn chỉ
có tính chất trao đổi nội bộ trong hiệp hội. Đặc biệt, cần phải bãi bỏ những
quy định về việc xuất khẩu gạo tại thị trường tập trung, bỏ quy định cấm các thương
nhân, doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu gạo và các thị trường G2G và bãi bỏ các điều kiện giao hàng
xuất khẩu.
Về điều kiện để trở thành thương nhân đầu mối giao dịch hợp
đồng tập trung, VEPR đề nghị, không chỉ định đầu mối và ấn định tỷ lệ do thương
nhân trực tiếp và ủy thác xuất khẩu. Bộ Công Thương cần xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng để
trở thành đầu mối giao dịch tập trung; đấu thầu quyền đàm phán và điều phối các
giao dịch hợp đồng G2G khi có nhiều doanh nghiệp đạt tiêu chí đặt ra.