2012 và lo ngại về “tình huống nguy hiểm”
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhìn nhận về những khó khăn trong năm 2012 mà nền kinh tế có thể phải đối mặt
Hiện nay, Quốc hội đã phê chuẩn nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế năm 2012, song đây mới chỉ là các con số mục tiêu, không phải là kịch bản hành động. Thực tế, chúng ta vẫn chưa có kịch bản hành động đi kèm để luận giải, luận chứng cho tính hợp lý của kịch bản mục tiêu.
Quan ngại trên được TS.Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đưa ra tại hội thảo “Thế giới và Việt Nam - Dự báo 2012” do VCCI phối hợp với Le Bros tổ chức ngày 17/12.
Cẩn thận với “vòng xoáy”
Theo TS.Trần Đình Thiên, đến thời điểm này các dự báo đều thống nhất nhận định về một triển vọng u ám, thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều, của kinh tế thế giới năm 2012 so với năm 2011. Trong đó hai điểm nhấn quan trọng là sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là của các trung tâm tăng trưởng (Mỹ, EU, Nhật bản, Trung Quốc) và sự bất ổn gia tăng, khả năng bùng nổ cuộc chiến tranh tiền tệ, chiến tranh thương mại, thậm chí nguy cơ suy thoái kép. Thậm chí, bi quan hơn, nhiều ý kiến còn đề cập đến tình huống năm 2012 là “đêm trước của khủng hoảng”.
Trong năm 2012, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động tiêu cực mạnh từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới.
Ông Thiên cũng lưu ý, từ các năm trước, trong những hoàn cảnh quốc tế như nhau thì các chỉ số kinh tế cơ bản của Việt Nam (tăng trưởng, lạm phát, giá trị đồng tiền, nợ...) đã kém rõ rệt so với nhiều nền kinh tế khác. Khả năng này chắc cũng sẽ xảy ra cho năm 2012, thậm chí ở cấp độ gay gắt hơn.
Lý do là bởi nền kinh tế Việt Nam năm 2012 đang ở vào một tình thế khó khăn hơn, thực lực lại bị yếu đi hơn nhiều so với những năm trước. Tháng 8/2011, The Economist đánh giá Việt Nam là một trong 7 nền kinh tế có nguy cơ tăng trưởng nóng cao nhất thế giới.
Chính vì vậy, theo các chuyên gia có mặt tại hội thảo, tuy có thể có một số tác động tích cực nào đó (giá cả hàng hóa, năng lượng, nguyên liệu có thể giảm, giúp giảm CPI, hỗ trợ tăng trưởng), song tình hình kinh tế thế giới năm 2012 nhìn chung sẽ tác động bất lợi nhiều hơn đến tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn nhận thực lực nền kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2012, TS.Thiên cho rằng, di sản các năm trước để lại (tình huống mà nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào) chính là xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng, lạm phát cao, thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách nặng nề, đồng tiền yếu kém nhất châu Á, vẫn chưa có dấu hiệu được chặn lại một cách chắc chắn.
Đáng lo ngại hơn, đây lại là tình trạng đã kéo dài nhiều năm, nên rất có thể nó sẽ dẫn tới một vòng xoáy trong phát triển kinh tế: đình trệ đi liền với lạm phát cao.
Vì vậy, chuyên gia này nhìn nhận, nếu quả thực Việt Nam đã rơi vào vòng xoáy này thì đó là một tình huống thực sự rất nguy hiểm.
Bởi lẽ, sức khỏe doanh nghiệp bị hao hụt nặng. Lần đầu tiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố thông tin trong 9 tháng đầu năm gần 50.000 doanh nghiệp (9% tổng số) đóng cửa.
Theo ông Thiên, tuy mức độ chính xác của số liệu còn phải bàn ( bởi có một số bằng chứng gián tiếp nhưng đáng tin cậy cho rằng số doanh nghiệp đóng cửa có thể lên tới 30-35%, tức là gấp 3-4 lần con số công bố), song 9% số doanh nghiệp đóng cửa cũng tạm đủ để nói lên tính nghiêm trọng của tình hình.
Cùng với đó là đời sống ngày càng khó khăn của dân cư, nhất là nhóm người thu nhập thấp (công chức, công nhân và nông dân) do lạm phát cao kéo dài và việc làm bị thu hẹp.
Tình hình này gây ra ít nhất hai hệ quả nghiêm trọng: sức mua xã hội giảm và lòng tin bị xói mòn. Lòng tin của thị trường, của nhân dân, trong khung cảnh cách điều hành chính sách nặng về hành chính, “chữa cháy”, lại thiếu nhất quán trong các thông điệp đưa ra, càng dễ bị suy giảm mạnh.
Doanh nghiệp tìm vốn ở đâu?
Theo TS.Trần Đình Thiên, trên cơ sở phân tích tình thế phát triển nêu trên, cho phép chúng ta nhận định cơ sở cho tăng trưởng GDP năm 2012 nhìn chung là yếu hơn so với các năm trước. Cùng với đó là dư địa chính sách để chống lạm phát và ổn định vĩ mô bị thu hẹp đáng kể.
Giới chuyên gia nhìn nhận, năm 2012 chúng ta có nhiệm vụ khôi phục ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và phục hồi tăng trưởng. Về nguyên tắc, đó là những nhiệm vụ “thông thường” của một nền kinh tế khi lâm vào tình trạng khó khăn.
Nhưng với TS Trần Đình Thiên, năm 2012 là năm đặc biệt. Bởi, đây là năm nền kinh tế lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, cũng là năm nền kinh tế phải tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình hình, ổn định vững chắc tình hình (không để lạm phát “khứ hồi”) để khôi phục lòng tin, hạ thấp mức lạm phát đến mức giúp các doanh nghiệp không lún sâu hơn vào tình thế bi kịch (số doanh nghiệp bị đóng cửa và phá sản tiếp tục tăng).
Ngoài ra, năm 2012 còn một điểm nhấn đặc biệt khác khi chúng tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế với các hành động thực tế mang tính chiến lược để thay đổi mô hình tăng trưởng.
Việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đó, trong điều kiện nguồn lực hạn chế và dư địa cho hành động chính sách của Chính phủ bị “thu hẹp”, rõ ràng là rất khó khăn. Không thể chậm hơn, cần quán triệt tư duy “đánh đổi” khi cân nhắc mức độ ưu tiên giữa mục tiêu ổn định, cải cách (tái cấu trúc) và mục tiêu tăng trưởng trên quan điểm lợi ích phát triển dài hạn (lợi ích chiến lược).
Về cấp độ ưu tiên, thực tiễn nhiều năm cho thấy, để đưa nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay (thực tế vẫn đang trong xu hướng khó khăn hơn), không thể không ưu tiên cho nhiệm vụ tái cơ cấu (với mục tiêu là làm cho việc thay đổi mô hình tăng trưởng thực sự diễn ra). Nhưng để quá trình tái cơ cấu có thể diễn ra, cần ổn định nền kinh tế để tái lập lòng tin thị trường, lòng tin xã hội. Đây phải là hai mục tiêu/nhiệm vụ ưu tiên cao nhất.
Tương ứng, mục tiêu tăng trưởng đương nhiên không phải là mục tiêu ưu tiên nhưng không phải là “không ưu tiên” ở cấp độ “thông thường” như mấy năm nay mà phải là “không ưu tiên” với lập trường kiên định.
TS Thiên chỉ ra, thực tế mấy năm gần đây diễn ra một tình trạng nghịch lý: mục tiêu ưu tiên (kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tái cơ cấu) thì thường khó (hay không) đạt, còn mục tiêu không ưu tiên (tốc độ tăng trưởng GDP) thì đạt được tương đối dễ dàng. Điều này chứng tỏ mục tiêu tăng trưởng được thực hiện theo một cơ chế mang tính tự động, bản năng, bất chấp các nỗ lực chính sách.
Bình luận về kế hoạch năm 2012 đã được Quốc hội thông qua, trong đó 3 chỉ tiêu quan trong nhất là GDP (6 hoặc 6,5%) và CPI (dưới 10%), tổng đầu tư toàn xã hội giảm từ 39,8% xuống 33,5%, TS Thiên cho rằng, tuy đã “nén” các chỉ số, song các mục tiêu đề xuất trong kế hoạch, kể cả ở con số “ít lạc quan” cũng đều lạc quan hơn so với kết quả thực tế đạt được năm 2011. Đáng lưu ý là sự cải thiện mạnh mẽ một số chỉ tiêu chất lượng, đầu tư ít hơn nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn, bội chi ngân sách ít hơn.
Hơn nữa, đây là kịch bản mục tiêu “phấn đấu thông thường”, cơ bản giống như các năm khác. Với kịch bản này, dường như việc nhận diện tình thế và nhiệm vụ phải làm của năm 2012 không có gì khác biệt, chưa nói đặc biệt.
“Chúng ta thử đặt câu hỏi, nếu tổng đầu tư xã hội giảm mạnh từ 39,8% GDP xuống 33,5-34% GDP; nhưng GDP tăng trưởng với tốc độ cao hơn (6 - 6,5% so 5,8% hiện nay) thì có nghĩa là phải trông đợi vào tăng hiệu quả đầu tư. Nhưng phép màu tăng hiệu quả là ở đâu”, TS Thiên nói.
TS Thiên đặt câu hỏi tiếp: khi lạm phát thấp hơn nhưng tăng trưởng GDP cao hơn, trong điều kiện chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục thắt chặt, không biết doanh nghiệp sẽ tiếp cận vốn như thế nào? Cùng với đó, mức lạm phát có giảm xuống dưới 10% đã đủ bảo đảm tái lập ổn định vĩ mô và giúp chặn xu hướng đóng cửa và phá sản của các doanh nghiệp chưa? Bởi với mức lạm phát mục tiêu này vẫn cao hơn mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP, nghĩa là nhìn tổng thể, đời sống đa số người dân vẫn tiếp tục bị giảm sút.
“Khóa” lại phần phát biểu của mình, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh: muốn đạt được các mục tiêu trên, tạo cơ sở cho sự thay đổi mạnh thì phải dám dùng những biện pháp mạnh (lấy độc trị độc), chấp nhận nền kinh tế chịu trả giá, chịu đau mới xoay chuyển căn bản tình hình, tạo lòng tin. Không thể trông chờ vào các giải pháp mang tính chữa cháy.
Quan ngại trên được TS.Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đưa ra tại hội thảo “Thế giới và Việt Nam - Dự báo 2012” do VCCI phối hợp với Le Bros tổ chức ngày 17/12.
Cẩn thận với “vòng xoáy”
Theo TS.Trần Đình Thiên, đến thời điểm này các dự báo đều thống nhất nhận định về một triển vọng u ám, thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều, của kinh tế thế giới năm 2012 so với năm 2011. Trong đó hai điểm nhấn quan trọng là sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là của các trung tâm tăng trưởng (Mỹ, EU, Nhật bản, Trung Quốc) và sự bất ổn gia tăng, khả năng bùng nổ cuộc chiến tranh tiền tệ, chiến tranh thương mại, thậm chí nguy cơ suy thoái kép. Thậm chí, bi quan hơn, nhiều ý kiến còn đề cập đến tình huống năm 2012 là “đêm trước của khủng hoảng”.
Trong năm 2012, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động tiêu cực mạnh từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới.
Ông Thiên cũng lưu ý, từ các năm trước, trong những hoàn cảnh quốc tế như nhau thì các chỉ số kinh tế cơ bản của Việt Nam (tăng trưởng, lạm phát, giá trị đồng tiền, nợ...) đã kém rõ rệt so với nhiều nền kinh tế khác. Khả năng này chắc cũng sẽ xảy ra cho năm 2012, thậm chí ở cấp độ gay gắt hơn.
Lý do là bởi nền kinh tế Việt Nam năm 2012 đang ở vào một tình thế khó khăn hơn, thực lực lại bị yếu đi hơn nhiều so với những năm trước. Tháng 8/2011, The Economist đánh giá Việt Nam là một trong 7 nền kinh tế có nguy cơ tăng trưởng nóng cao nhất thế giới.
Chính vì vậy, theo các chuyên gia có mặt tại hội thảo, tuy có thể có một số tác động tích cực nào đó (giá cả hàng hóa, năng lượng, nguyên liệu có thể giảm, giúp giảm CPI, hỗ trợ tăng trưởng), song tình hình kinh tế thế giới năm 2012 nhìn chung sẽ tác động bất lợi nhiều hơn đến tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn nhận thực lực nền kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2012, TS.Thiên cho rằng, di sản các năm trước để lại (tình huống mà nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào) chính là xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng, lạm phát cao, thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách nặng nề, đồng tiền yếu kém nhất châu Á, vẫn chưa có dấu hiệu được chặn lại một cách chắc chắn.
Đáng lo ngại hơn, đây lại là tình trạng đã kéo dài nhiều năm, nên rất có thể nó sẽ dẫn tới một vòng xoáy trong phát triển kinh tế: đình trệ đi liền với lạm phát cao.
Vì vậy, chuyên gia này nhìn nhận, nếu quả thực Việt Nam đã rơi vào vòng xoáy này thì đó là một tình huống thực sự rất nguy hiểm.
Bởi lẽ, sức khỏe doanh nghiệp bị hao hụt nặng. Lần đầu tiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố thông tin trong 9 tháng đầu năm gần 50.000 doanh nghiệp (9% tổng số) đóng cửa.
Theo ông Thiên, tuy mức độ chính xác của số liệu còn phải bàn ( bởi có một số bằng chứng gián tiếp nhưng đáng tin cậy cho rằng số doanh nghiệp đóng cửa có thể lên tới 30-35%, tức là gấp 3-4 lần con số công bố), song 9% số doanh nghiệp đóng cửa cũng tạm đủ để nói lên tính nghiêm trọng của tình hình.
Cùng với đó là đời sống ngày càng khó khăn của dân cư, nhất là nhóm người thu nhập thấp (công chức, công nhân và nông dân) do lạm phát cao kéo dài và việc làm bị thu hẹp.
Tình hình này gây ra ít nhất hai hệ quả nghiêm trọng: sức mua xã hội giảm và lòng tin bị xói mòn. Lòng tin của thị trường, của nhân dân, trong khung cảnh cách điều hành chính sách nặng về hành chính, “chữa cháy”, lại thiếu nhất quán trong các thông điệp đưa ra, càng dễ bị suy giảm mạnh.
Doanh nghiệp tìm vốn ở đâu?
Theo TS.Trần Đình Thiên, trên cơ sở phân tích tình thế phát triển nêu trên, cho phép chúng ta nhận định cơ sở cho tăng trưởng GDP năm 2012 nhìn chung là yếu hơn so với các năm trước. Cùng với đó là dư địa chính sách để chống lạm phát và ổn định vĩ mô bị thu hẹp đáng kể.
Giới chuyên gia nhìn nhận, năm 2012 chúng ta có nhiệm vụ khôi phục ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và phục hồi tăng trưởng. Về nguyên tắc, đó là những nhiệm vụ “thông thường” của một nền kinh tế khi lâm vào tình trạng khó khăn.
Nhưng với TS Trần Đình Thiên, năm 2012 là năm đặc biệt. Bởi, đây là năm nền kinh tế lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, cũng là năm nền kinh tế phải tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình hình, ổn định vững chắc tình hình (không để lạm phát “khứ hồi”) để khôi phục lòng tin, hạ thấp mức lạm phát đến mức giúp các doanh nghiệp không lún sâu hơn vào tình thế bi kịch (số doanh nghiệp bị đóng cửa và phá sản tiếp tục tăng).
Ngoài ra, năm 2012 còn một điểm nhấn đặc biệt khác khi chúng tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế với các hành động thực tế mang tính chiến lược để thay đổi mô hình tăng trưởng.
Việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đó, trong điều kiện nguồn lực hạn chế và dư địa cho hành động chính sách của Chính phủ bị “thu hẹp”, rõ ràng là rất khó khăn. Không thể chậm hơn, cần quán triệt tư duy “đánh đổi” khi cân nhắc mức độ ưu tiên giữa mục tiêu ổn định, cải cách (tái cấu trúc) và mục tiêu tăng trưởng trên quan điểm lợi ích phát triển dài hạn (lợi ích chiến lược).
Về cấp độ ưu tiên, thực tiễn nhiều năm cho thấy, để đưa nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay (thực tế vẫn đang trong xu hướng khó khăn hơn), không thể không ưu tiên cho nhiệm vụ tái cơ cấu (với mục tiêu là làm cho việc thay đổi mô hình tăng trưởng thực sự diễn ra). Nhưng để quá trình tái cơ cấu có thể diễn ra, cần ổn định nền kinh tế để tái lập lòng tin thị trường, lòng tin xã hội. Đây phải là hai mục tiêu/nhiệm vụ ưu tiên cao nhất.
Tương ứng, mục tiêu tăng trưởng đương nhiên không phải là mục tiêu ưu tiên nhưng không phải là “không ưu tiên” ở cấp độ “thông thường” như mấy năm nay mà phải là “không ưu tiên” với lập trường kiên định.
TS Thiên chỉ ra, thực tế mấy năm gần đây diễn ra một tình trạng nghịch lý: mục tiêu ưu tiên (kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tái cơ cấu) thì thường khó (hay không) đạt, còn mục tiêu không ưu tiên (tốc độ tăng trưởng GDP) thì đạt được tương đối dễ dàng. Điều này chứng tỏ mục tiêu tăng trưởng được thực hiện theo một cơ chế mang tính tự động, bản năng, bất chấp các nỗ lực chính sách.
Bình luận về kế hoạch năm 2012 đã được Quốc hội thông qua, trong đó 3 chỉ tiêu quan trong nhất là GDP (6 hoặc 6,5%) và CPI (dưới 10%), tổng đầu tư toàn xã hội giảm từ 39,8% xuống 33,5%, TS Thiên cho rằng, tuy đã “nén” các chỉ số, song các mục tiêu đề xuất trong kế hoạch, kể cả ở con số “ít lạc quan” cũng đều lạc quan hơn so với kết quả thực tế đạt được năm 2011. Đáng lưu ý là sự cải thiện mạnh mẽ một số chỉ tiêu chất lượng, đầu tư ít hơn nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn, bội chi ngân sách ít hơn.
Hơn nữa, đây là kịch bản mục tiêu “phấn đấu thông thường”, cơ bản giống như các năm khác. Với kịch bản này, dường như việc nhận diện tình thế và nhiệm vụ phải làm của năm 2012 không có gì khác biệt, chưa nói đặc biệt.
“Chúng ta thử đặt câu hỏi, nếu tổng đầu tư xã hội giảm mạnh từ 39,8% GDP xuống 33,5-34% GDP; nhưng GDP tăng trưởng với tốc độ cao hơn (6 - 6,5% so 5,8% hiện nay) thì có nghĩa là phải trông đợi vào tăng hiệu quả đầu tư. Nhưng phép màu tăng hiệu quả là ở đâu”, TS Thiên nói.
TS Thiên đặt câu hỏi tiếp: khi lạm phát thấp hơn nhưng tăng trưởng GDP cao hơn, trong điều kiện chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục thắt chặt, không biết doanh nghiệp sẽ tiếp cận vốn như thế nào? Cùng với đó, mức lạm phát có giảm xuống dưới 10% đã đủ bảo đảm tái lập ổn định vĩ mô và giúp chặn xu hướng đóng cửa và phá sản của các doanh nghiệp chưa? Bởi với mức lạm phát mục tiêu này vẫn cao hơn mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP, nghĩa là nhìn tổng thể, đời sống đa số người dân vẫn tiếp tục bị giảm sút.
“Khóa” lại phần phát biểu của mình, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh: muốn đạt được các mục tiêu trên, tạo cơ sở cho sự thay đổi mạnh thì phải dám dùng những biện pháp mạnh (lấy độc trị độc), chấp nhận nền kinh tế chịu trả giá, chịu đau mới xoay chuyển căn bản tình hình, tạo lòng tin. Không thể trông chờ vào các giải pháp mang tính chữa cháy.