13:50 28/07/2022

Bất bình đẳng vẫn là thách thức lớn trong công tác giảm nghèo

Thu Hằng

Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong công tác giảm nghèo như: Mở rộng việc làm năng suất; cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, song tính dễ bị tổn thương và tình trạng bất bình đẳng vẫn là những thách thức lớn…

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Thông tin được chia sẻ tại Lễ công bố Báo cáo Nghèo đa chiều 2021 sáng 28/7. Báo cáo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện.

THÊM 10 TRIỆU NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG LỢI TỪ CÁC CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Báo cáo cho biết, với chuẩn nghèo đa chiều mới (được phê duyệt năm 2021) tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tăng từ 5,2% (năm 2020) lên 9,35% (năm 2022), đồng nghĩa với thêm 10 triệu người được hưởng lợi từ các chính sách và chương trình mục tiêu của Chính phủ về bảo trợ xã hội và giảm nghèo trong giai đoạn 2021-2025.

Trình bày về các kết quả chính của báo cáo, ông Nguyễn Thắng, Phó Chủ tịch Thứ nhất, Hội đồng Tư vấn Kinh tế - Xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam thừa nhận, mặc dù có những tiến bộ đáng kể về tổng thể, tính dễ bị tổn thương và tình trạng bất bình đẳng vẫn là những thách thức đáng kể. Tình trạng nghèo về thu nhập thoáng qua đã tăng lên đáng kể trong đại dịch Covid-19, đặc biệt đối với người di cư và nhóm dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nghèo đói giảm trên diện rộng nhưng vẫn còn cao ở một số nhóm đồng bào dân tộc thiểu số.

Theo báo cáo, nhìn chung, thành tựu giảm nghèo đã được thúc đẩy bởi những bước tiến tích cực cả ở 3 trụ cột chính gồm: Mở rộng nhanh chóng việc làm năng suất; cải thiện đáng kể tiếp cận các dịch vụ xã hội và hệ thống trợ giúp xã hội.

Trong đó, đối với việc làm năng suất, tỷ lệ lao động làm công ăn lương có việc làm có năng suất đã tăng nhanh chóng trong thập kỷ qua, tăng từ 65,2% năm 2010 lên 80,2% năm 2014 và gần 90,7% năm 2020. Tuy nhiên, việc làm có năng suất bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Dữ liệu hàng quý của Điều tra Lao động Việc làm của Tổng cục Thống kê cho thấy cho tỷ lệ lao động làm công ăn lương giảm 12,3% và 18,6% so với quý trước tương ứng trong quý 2/2020 và quý 3/2021.

Trong dịch vụ xã hội, ở khía cạnh y tế, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của người dân đã được cải thiện, nhưng sự chênh lệch vẫn còn. Cụ thể, thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho thấy, đến cuối năm 2021 có 91% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế vẫn đang chưa đáp ứng được mong đợi của người bệnh, nhất là tuyến y tế cơ sở. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em tiếp tục cản trở cơ hội phát triển và phát huy tiềm năng sau này của thế hệ này, đặc biệt là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Ở góc độ trợ giúp xã hội, đến năm 2021, hơn 16,5 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, chiếm 33,8% lực lượng trong độ tuổi lao động, tăng 2,1% so với năm 2020. Trên 1,4 triệu người (chiếm 2,9% lực lượng lao động) tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện năm 2021, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2020.

Tuy nhiên, hệ thống bảo trợ xã hội vẫn còn nhiều bất cập. Thứ nhất, lao động phi chính thức vẫn còn gặp khó khăn trong tiếp cận hệ thống bảo trợ xã hội. Thứ hai, trợ giúp xã hội cần được thay đổi căn bản về phương thức thực hiện. Hiện tại, chương trình trợ giúp tiền mặt có phạm vi bao phủ hạn chế và mức trợ cấp thấp. Vì vậy, chương trình không đủ khả năng ứng phó với các cú sốc quy mô lớn và mang tính hệ thống.

THÚC ĐẨY VIỆC LÀM CÓ NĂNG SUẤT, HỖ TRỢ TẠO SINH KẾ CHO NGƯỜI NGHÈO

Để duy trì giảm nghèo đa chiều, báo cáo đưa ra khuyến nghị dựa trên ba trụ cột của giảm nghèo đa chiều.

Các chuyên gia chia sẻ về kết quả báo cáo. Ảnh - Nhật Dương. 
Các chuyên gia chia sẻ về kết quả báo cáo. Ảnh - Nhật Dương. 

Thứ nhất, nền tảng của nền kinh tế cần được củng cố để thúc đẩy việc làm có năng suất, với trọng tâm là ổn định kinh tế vĩ mô, hội nhập toàn cầu, cải thiện cơ sở hạ tầng thông suốt các kết nối và tạo thuận lợi thương mại, cũng như tăng tốc chuyển đổi cơ cấu từ các hoạt động năng suất thấp sang nông nghiệp năng suất cao hơn, hay sang sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo hoặc dịch vụ.

Thứ hai, cung cấp cho mọi người các dịch vụ xã hội chất lượng cao. Thứ ba, hệ thống bảo trợ xã hội của Việt Nam cần được mở rộng và tăng cường.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết, việc áp dụng phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều đã hỗ trợ rất lớn trong xây dựng, triển khai và đo lường sự thành công của chính sách dân tộc trong giai đoạn vừa qua.

 “Ủy ban Dân tộc kỳ vọng Báo cáo “Nghèo đa chiều Việt Nam 2021” sẽ chỉ ra được những tồn tại căn bản, các nguyên nhân chính của nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi tại Việt Nam. Từ đó đề xuất ra các phương hướng, biện pháp, công cụ hữu hiệu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Ủy ban Dân tộc, các bộ ngành liên quan và các tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi thực hiện thành công Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và các chương trình, chính sách dân tộc khác”, ông Hầu A Lềnh nhấn mạnh.

Về phía Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Thứ trưởng Nguyễn Bá Hoan mong muốn, trong thời gian tới, các đối tác quốc tế tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ trong lĩnh vực giảm nghèo, đặc biệt thực hiện các nội dung về tổ chức triển khia Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tập trung nâng cao năng lực của người dân thông qua việc triển khai các dự án giảm ngheo. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách giảm nghèo nhằm hỗ trợ người nghèo toàn diện, đáp ứng nhu cầu trong bối cảnh ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, nghiên cứu, hoàn thiện phương pháp đo lường nghèo đa chiều; hỗ trợ tạo sinh kế, việc làm, thu nhập cho người nghèo, thực hiện các sáng kiến giảm nghèo dựa vào cộng đồng.

Trợ lý Tổng thư ký Liên Hợp Quốc kiêm Giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) Kanni Wignaraja cũng nêu rõ năm khuyến nghị chính cho nỗ lực tăng tốc giảm nghèo ở mọi khía cạnh, bao gồm: Các nỗ lực đầu tư và chính sách cần thiết để khuyến khích và cải thiện việc làm năng suất cao; cải thiện việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng và nâng cao khả năng tiếp cận đối với cộng đồng ở vùng sâu vùng xa; mở rộng bảo trợ xã hội, không phải là tạm thời để ứng phó với các cuộc khủng hoảng, mà như một hệ thống thường trực linh hoạt và mở rộng hơn.

Cùng với đó, mở rộng việc sử dụng số hóa trong việc thực hiện, trong kinh tế tri thức, nâng cao hiệu quả và tính minh bạch; thúc đẩy các giải pháp sáng tạo và mở rộng quy mô đối với các thí điểm thành công vì và do các cộng đồng dân tộc thực hiện.