
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Sáu, 17/10/2025
Chu Khôi
10/09/2021, 18:54
Tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp cả nước lên đến 157 triệu tấn mỗi năm, trong đó, có 89 triệu tấn phụ phẩm ngành trồng trọt; 61 triệu tấn phân gia súc, gia cầm; 5,5 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp...
Phần lớn lượng phụ phẩm nông nghiệp đang bị đốt bỏ, hoặc thải ra môi trường vừa lãng phí vừa gây ô nhiễm môi trường... Đó là câu chuyện được bàn luận tại hội thảo trực tuyến "Hiện trạng phụ phẩm nông, lâm, thủy sản ở Nam Bộ và đề xuất giải pháp" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .tổ chức ngày 10/9/2021.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận định, nước ta có nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển, có sản lượng nông sản lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho trên 97 triệu dân và xuất khẩu trên 41 triệu USD tới trên 180 nước, vùng lãnh thổ.
Trong quá trình sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế biến các nông sản đó, tỷ lệ phụ phẩm từ ngành lâm nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản là rất lớn.
Ở góc độ nền kinh tế nông nghiệp tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh, nông phụ phẩm này phải được xem là nguồn tài nguyên tái tạo, chứ không phải là chất thải, mà phải được xem là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình tuần hoàn khác nhằm kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, tổng khối lượng phụ phẩm theo lý thuyết của cả nước năm 2020 là trên 156,8 triệu tấn, bao gồm: 88,9 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt (chiếm 56,7%); 61,4 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi (chiếm 39,1%); 5,5 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp (chiếm 3,5%) và khoảng gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản (10,6%).
Trong đó, riêng khu vực Nam bộ, phụ phẩm nông nghiệp chủ yếu từ ngành trồng trọt và chăn nuôi, với hơn 13,9 triệu tấn trong năm 2020 tại Đông Nam bộ và 39,4 triệu tấn tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo ông Chinh, phụ phẩm trồng trọt sau thu hoạch có khối lượng lớn từ rơm lúa 42,8 triệu tấn, thân cây bắp 10 triệu tấn, rau và quả 3,6 triệu tấn, thân cây mì (sắn) 3,1 triệu tấn, trái giả đào lộn hột (điều) 3,1 triệu tấn và các loại khác 6,1 triệu tấn.
Phụ phẩm từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt là vỏ trấu 8,6 triệu tấn, bã mía 3,5 triệu tấn, lõi bắp 1,4 triệu tấn, vỏ củ mì 1,3 triệu tấn và các loại khác là 2 triệu tấn.
Tuy số lượng phụ phẩm nông nghiệp rất lớn nhưng, tỷ lệ thu gom phụ phẩm trồng trọt chỉ đạt 52,2% trên tổng lượng là 88,9 triệu tấn; chăn nuôi có tỷ lệ thu gom là 75,1% trên tổng lượng là 61,4 triệu tấn; thuỷ sản có tỷ lệ thu gom cao nhất với 90% trên tổng lượng phụ phẩm là 1 triệu tấn và lâm nghiệp có tỷ lệ thu gom 50,2% trên tổng lượng là 5,5 triệu tấn.
Trong đó, tỷ lệ sử dụng rơm lúa chỉ có 56,3% cho các mục đích làm thức ăn thô cho gia súc ăn cỏ, làm chất độn chuồng cho vật nuôi, làm đệm lót sinh học cho vật nuôi, làm nấm rơm, phủ gốc cho cây trồng, lót các loại trái cây...
“Đặc biệt, một lượng đáng kể rơm được đốt ngay tại ruộng ở một số nơi thuộc miền Bắc, miền Trung đã gây ô nhiễm không khí, gây cản trở giao thông, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và là hành vi bị cấm theo quy định về pháp luật môi trường”, ông Chinh cảnh báo.
Ông Chinh nhận định, xu thế hiện tại và trong tương lai, thị trường thu gom, đóng gói, vận chuyển và buôn bán rơm sẽ ngày càng phát triển.
Trong vụ đông xuân năm 2021 ở tỉnh Đồng Tháp, giá bán rơm khoảng từ 55.000 - 75.000 đồng trên 1.000m2 ruộng, tương đương 400 đồng/kg, giá rơm cạnh đường giao thông liên xã là 15.000 đồng/bó tương đương 1.250 đồng/kg.
Nếu vận chuyển xa thì giá bán rơm tại cơ sở sử dụng cho nuôi gia súc, làm nấm, làm vườn… là khoảng 25.000 đồng/bó, tương đương 2.083 đồng/kg. Do đó, người nông dân trồng lúa, ngoài thu thóc thì sau khi gặt xong còn có thể thu thêm bình quân 550.000 đồng/ha rơm lúa nếu đem bán cho người thu mua.
Đối với chất thải của ngành chăn nuôi, hiện 48,5% được sử dụng ủ phân truyền thống (compost), trong đó 11% tạo ra khí sinh học; 31,8% bán nuôi trùn quế hoặc thải bỏ…
Theo ông Lê Văn Thiệt, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, tỷ lệ các nhà máy sử dụng nguồn nguyên liệu hữu cơ để sản xuất phân bón hữu cơ hiện vẫn ở mức khá thấp.
Cụ thể, sử dụng 43% chất thải chăn nuôi; 33,2% chất thải chế biến thực vật; 17,9% phụ phẩm trồng trọt; 16,2% chất thải chế biến động vật, thuỷ sản; rác thải sinh hoạt hữu cơ 8,1% và rong, tảo biển chỉ 5,1%.
TS. Mai Thành Phụng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam cho hay, hiện nay trong quá trình sản xuất và thu hái, chế biến trái cây ở Nam Bộ, lượng hạt xoài, vỏ chuối, vỏ sầu riêng… rất nhiều, nhưng nhiều nơi đang để lãng phí. Trong khi chúng ta có thể tái sử dụng để làm phân bón hữu cơ cho cây trồng ngay tại chính những vườn xoài, thanh long, dưa hấu…
Ông Phụng đề nghị cần đẩy mạnh truyền thông để giúp nông dân và doanh nghiệp vào cuộc, biến phụ phẩm nông nghiệp thành phân bón hữu cơ, giảm phụ thuộc nguồn nhập khẩu. Nếu làm tốt, có thể nâng sản lượng phân bón hữu cơ của các doanh nghiệp hiện nay từ 4 triệu tấn/năm lên 10 triệu tấn/năm.
GS.TS Võ Tòng Xuân cho rằng, việc thu gom, tái sử dụng các loại phụ phẩm trong nông nghiệp không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn giúp nông dân có cơ hội làm giàu.
“Hiện ngành chế biến phụ phẩm thủy sản của Việt Nam chỉ đạt khoảng 275 triệu USD, nhưng, nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm gần 1 triệu tấn của ngành thủy sản bằng công nghệ cao, chế biến thành các thực phẩm chức năng, mỹ phẩm thì có thể thu về 4-5 tỷ USD”, TS Võ Tòng Xuân lưu ý.
Tại hội thảo, các chuyên gia cho rằng, muốn gia tăng hiệu quả sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, cần đổi mới về cơ chế chính sách thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu trang thiết trị, công nghệ để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực thu gom, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, chế biến các phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi nhằm nối dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Mặt khác, cần nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới để áp dụng hiệu quả trong lĩnh vực xử lý, chế biến phụ phẩm nông nghiệp.
Với dân số hơn 250 triệu người và phần đông là người trẻ (65% dân số dưới 30 tuổi), Pakistan là một thị trường tiêu dùng khổng lồ với nhu cầu ngày càng tăng về nhiều mặt hàng. Cùng với dân số hơn 100 triệu người của Việt Nam, chúng ta có một thị trường chung gần 360 triệu người, tạo nên quy mô kinh tế đáng kể...
Sau khi đưa vào vận hành, đường dây 500kV Lào Cai – Vĩnh Yên có khả năng truyền tải khoảng 3.000 MW từ các nhà máy thủy điện ở khu vực Tây Bắc và các tỉnh lân cận lên lưới điện quốc gia và tăng khả năng nhập khẩu điện…
Từ những hạt nhựa nhỏ bé thô sơ, từ vài chục cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đến nay, ngành nhựa đã có hơn 4.000 doanh nghiệp. Ngành đang kiên định bước vào "kỷ nguyên xanh", hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và khát vọng vươn tầm thịnh vượng…
Việc chưa có một hệ thống truy xuất nguồn gốc toàn diện, đồng bộ đã tạo kẽ hở cho một số đối tượng cố tình lợi dụng sử dụng sai mục đích một số hóa chất, tiền chất hoặc lợi dụng, lạm dụng trong sản xuất hàng giả, hàng nhái trong dược phẩm, thuốc chữa bệnh...
Ngày 16/10, thông tin từ UBND TP. Hải Phòng cho biết thành phố này đã ra quyết định thành lập Khu thương mại tự do với tổng diện tích 6.292 ha, nhằm hình thành, phát triển các trung tâm sản xuất, logistics, thương mại - dịch vụ, công nghệ cao và tài chính mới có khả năng cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: