Từ năm 2000 đến nay, cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu được công bố theo tín hiệu thị trường
.
Đó là việc lấy mức tỷ giá bình quân hình thành trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng tại thời điểm đóng cửa ngày làm việc hôm trước
để công bố cho ngày mở cửa hôm sau và "cộng, trừ" một biên độ hẹp cho
các ngân hàng thương mại kinh doanh.
Tuy nhiên, do nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua phát triển khá ổn
định, nên cơ bản tỷ giá VND/USD "được neo" tự nhiên và ổn định vào đồng
USD là đồng tiền chiếm 90% doanh số thanh toán xuất - nhập khẩu.
"Vũ điệu" tỷ giá sụt - trồi - đứng - tăng mạnh
Riêng năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho
dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm
trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là
12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng
USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do.
Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng
giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200 đồng/USD
rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong
tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500 đồng/USD,
nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng
thái bình thường xung quanh 16.800 đồng/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn.
Nội hàm của sự bất ổn này nếu loại trừ những nhân tố khách quan tác
động từ nước ngoài, thì có 3 nguyên nhân chính từ phía chính sách quản
lý ngoại hối còn lỏng lẻo.
Thứ nhất, do tình trạng Đô la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn
khá phổ biến trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng
phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua ngân hàng
thương mại... đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất
hiện những biến động về ngoại tệ.
Thứ hai, nhập siêu 6 tháng đầu năm 2008 đã lên tới trên 14 tỷ USD (chủ
yếu rơi vào 4 tháng đầu năm), cao kỷ lục từ trước đến nay.
Thứ ba, không ngoại trừ có một lượng nội tệ nằm tại các quĩ đầu tư và
tại các quĩ tiền mặt của các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài
tại Việt Nam đã mua vào khá nhiều Đôla để chuyển đổi tiền tệ, tạo tâm
lý bất ổn để đầu cơ tiền tệ ngay trên thị trường tiền tệ Việt Nam cùng
với những hành vi vi phạm của một số đại lý thu đổi ngoại tệ cho các
ngân hàng thương mại đã tự ý găm ngoại tệ để đầu cơ không bán lại cho
ngân hàng theo cam kết...
Ngoài ra còn một số lý do gián tiếp khác là các tín hiệu phát ra từ nền kinh tế đầu tầu thế giới là Mỹ rất biến động.
Đề xuất giải pháp quản lý ngoại hối
Vì vậy, về giải pháp chính sách về quản lý ngoại hối nói chung và về điều hành tỷ giá nói riêng, xin đề xuất như sau:
Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại
hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn
các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không
nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán
quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng
tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất
trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay
đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý
ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải.
Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng
ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng
có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa
bằng ngoại tệ.
Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đã có dấu hiệu nghịch lý
về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi
suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở
mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ
để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm.
Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì
ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở
"quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển,
trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại
ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối thanh
toán bằng nội tệ!
Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng
ngoại tệ... Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát
triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt
động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao
dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc
những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh
thổ Việt Nam chỉ tiêu VND".
Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm
soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán
trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam.
Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị
trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ
theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được
thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương.
Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên,
người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi
vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu
theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của
Việt Nam.
* Tác giả bài viết là Phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước.