Cần chính sách đòn bẩy phát triển khu thương mại tự do
Song Hà
17/02/2025, 12:58
Được đánh giá là có tiềm năng lớn, song do thiếu chính sách về phát triển nên đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có khu thương mại tự do (FTZ) nào được hình thành...
Nhiều địa phương ở Việt Nam có tiềm năng lớn cho phát triển khu thương mại tự do. Ảnh minh họa.
Báo cáo logistics 2024 của Bộ Công Thương nhận định khu thương mại tự do (FTZ) là mô hình đã quen thuộc trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ.
Thời gian qua, Việt Nam đã từng bước tiếp cận mô hình này thông qua việc phát triển những loại hình khu có quy mô nhỏ hơn như: khu chế xuất, khu phi thuế quan trong khu kinh tế, các kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế...
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 414 khu công nghiệp, trong đó có 4 khu chế xuất.
CƠ HỘI LỚN TỪ TIỀM NĂNG ĐỊA PHƯƠNG
Bộ Công Thương cho rằng Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển các khu thương mại tự do. Với đường bờ biển dài 3.260 km, Việt Nam là cầu nối quan trọng giữa các quốc gia trong khu vực và thế giới.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, một vị trí địa lý chiến lược gần các tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng. Vị trí này cho phép Việt Nam trở thành một điểm trung chuyển hàng hóa quan trọng trong khu vực, dễ dàng kết nối với các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia ASEAN khác. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các FTZ, nơi hàng hóa có thể được nhập khẩu, chế biến và xuất khẩu một cách hiệu quả.
Việt Nam sở hữu nhiều cảng biển lớn và hiện đại như cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng và cảng Cái Mép - Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu, những cảng này có khả năng tiếp nhận tàu container lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa.
Hệ thống giao thông kết nối giữa cảng biển với các khu công nghiệp và khu chế xuất cũng đang được nâng cấp và mở rộng, bao gồm đường bộ, đường sắt và hàng không, tạo nên một mạng lưới logistics hiệu quả, hỗ trợ cho sự phát triển của FTZ.
Hơn nữa, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhằm thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các chính sách này bao gồm miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập vào từ nước ngoài để sản xuất, kinh doanh trong các FTZ và miễn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trong FTZ. Chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi cũng được áp dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Mặt khác, Việt Nam có nền tảng từ nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng GDP ổn định. Đồng thời, Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác lớn như EU, Hàn Quốc, Nhật Bản và các quốc gia ASEAN, mở ra nhiều cơ hội cho việc phát triển FTZ…
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu là những địa phương có tiềm năng lớn cho phát triển FTZ, do các địa phương này được mệnh danh là “thủ phủ” công nghiệp và cảng biển.
Đơn cử như Bà Rịa - Vũng Tàu sở hữu hệ thống cảng biển nước sâu tiên tiến, trong đó cụm cảng Cái Mép - Thị Vải đóng vai trò chủ chốt, khẳng định vị thế là một trong những cụm cảng biển lớn nhất Việt Nam với tổng công suất lên đến hơn 18 triệu TEU/năm. Đây còn là một trung tâm công nghiệp lớn, sở hữu nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất hiện đại.
Tương tự, Hải Phòng là một trong những thành phố cảng lớn nhất và quan trọng nhất của Việt Nam, một trung tâm kinh tế lớn của khu vực phía Bắc, với nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất lớn. Bên cạnh những khu vực trọng điểm trên, Lạng Sơn, Đồng Nai, Bình Dương với nhiều tiềm năng cũng được Bộ Công Thương nhấn mạnh nên được cân nhắc thành lập khu thương mại tự do.
THIẾU CƠ CHẾ, NGUỒN LỰC
Mặc dù vậy, để hình thành và phát triển FTZ ở Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Báo cáo logistics cho biết đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có FTZ nào được hình thành. Hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa có quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định thành lập, mô hình quản lý, cơ chế hoạt động, phân cấp quản lý trong FTZ.
“Việc thiếu khung pháp lý gây khó khăn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư trong việc tiếp cận và phát triển FTZ, đồng thời, làm giảm tính minh bạch và hiệu quả của quản lý nhà nước đối với các khu vực này”, báo cáo nhận định.
Trong khi đó, Việt Nam phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực đã có các FTZ phát triển như Singapore, Thái Lan và Malaysia. Những quốc gia này có khung pháp lý hoàn thiện, cơ sở hạ tầng hiện đại và các chính sách ưu đãi hấp dẫn, tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với Việt Nam trong việc thu hút đầu tư và phát triển FTZ. Ngoài ra, các quốc gia này cũng có kinh nghiệm quản lý và vận hành FTZ hiệu quả, làm cho việc cạnh tranh trở nên khó khăn hơn.
Đặc biệt, theo Bộ Công Thương, chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics và quản lý FTZ tại Việt Nam còn hạn chế. Mặc dù Việt Nam có lực lượng lao động trẻ và đông đảo, nhưng kỹ năng và trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực này chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các doanh nghiệp trong các FTZ. Việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhà đầu tư, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của FTZ.
Cơ sở hạ tầng logistics dù đã được cải thiện, vẫn cần đầu tư thêm vào các dịch vụ hỗ trợ logistics như kho bãi, bốc xếp hàng hóa và các dịch vụ phụ trợ khác để nâng cao hiệu quả hoạt động của FTZ. Hệ thống giao thông kết nối giữa các khu vực kinh tế trọng điểm và các FTZ cần được nâng cấp và mở rộng hơn nữa đảm bảo việc vận chuyển hàng hóa diễn ra thông suốt và hiệu quả.
CẦN HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ
Báo cáo cho rằng để phát triển FTZ tại Việt Nam, cần có các bước đi cụ thể: đầu tiên, cần hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng và ban hành các quy định pháp lý cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định đầu tư, thành lập, quản lý và cơ chế hoạt động của FTZ; tiếp theo, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến về FTZ để nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng về lợi ích và cơ hội từ FTZ.
Việt Nam cũng cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã thành công trong việc phát triển FTZ như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất (UAE), Trung Quốc, Brazil, Singapore và Panama. Đồng thời, triển khai các dự án thí điểm FTZ tại một số địa phương có tiềm năng để đánh giá hiệu quả và rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cần mở rộng hợp tác quốc tế, ký kết các Hiệp định thương mại tự do và Hiệp định đối tác kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển FTZ.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, cho rằng vướng mắc của các khu thương mại tự do tại Việt Nam chính là cơ chế, chính sách. Bởi các nội dung phân cấp, trao quyền, vận hành, tương tác giữa các vùng kinh tế bình thường, khu công nghiệp khác với khu thương mại tự do là chưa từng có tiền lệ, điều này dẫn tới phải có một sự điều chỉnh trong luật; các quy trình, thủ tục xin cấp phép thành lập khu thương mại cũng chưa được dẫn chiếu từ bất kỳ văn bản nào.
Do vậy, tỉnh, thành phố cần chủ động đề xuất dự thảo Cơ chế thí điểm Khu thương mại tự do thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung trình Quốc hội phê duyệt; chủ động xin ý kiến các bộ liên quan như: Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường... về các khu chức năng phù hợp với lợi thế của tỉnh, thành phố; các chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư; chế độ ưu tiên trong thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát chuyên ngành; cơ chế cấp duyệt các quy hoạch chi tiết, cấp - gia hạn - thu hồi giấy phép lao động…
Đồng thời, đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông hiện đại, bao gồm hệ thống đường bộ, cảng biển, sân bay và cơ sở vật chất trong địa bàn tỉnh, thành phố. Cùng với đó, các tỉnh, thành phố cũng cần nghiên cứu đề xuất đơn giản hóa thủ tục hải quan và quản lý, giảm thiểu thời gian và chi phí, đồng thời tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; xây dựng chính sách ưu đãi mời gọi đầu tư thế hệ mới, hướng tới các ngành công nghệ cao, dịch vụ tài chính và công nghiệp thân thiện với môi trường...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 07-2024 phát hành ngày 17/02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Thịt trâu thải loại, giá rẻ từ Ấn Độ nhập khẩu về Việt Nam ngày càng nhiều
Theo số liệu từ Cục Hải Quan, trong nửa đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu tới 103 nghìn tấn thịt trâu từ Ấn Độ, tăng 14,2% về khối lượng với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói, thịt trâu Ấn Độ vốn từ giống trâu Murrah chuyên nuôi để lấy sữa, thịt không ngon, nhưng lại bán chạy ở Việt Nam…
Bão số 5 áp sát, các tỉnh Bắc Trung Bộ lệnh cấm biển
Trước diễn biến phức tạp của bão số 5 (Kajiki) với gió giật cấp 13 - 14 và mưa lớn diện rộng, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã đồng loạt ban hành lệnh cấm biển, khẩn trương kêu gọi tàu thuyền vào nơi tránh trú an toàn, vận hành xả lũ hồ chứa và triển khai phương châm “4 tại chỗ” nhằm chủ động ứng phó.
Bão số 5 sẽ đổ bộ vào Hà Tĩnh, Quảng Trị, dự báo sức tàn phá không kém bão Yagi
Vào lúc 10h ngày 24/8/2025, vị trí tâm bão số 5 (bão Kajiki) ở vào khoảng 17.4 độ Vĩ Bắc; 110.9 độ Kinh Đông, cách Hà Tĩnh khoảng 560km về phía Đông, sức gió mạnh nhất cấp 12-13 (118-149km/h), giật cấp 16. Dự báo bão số 5 sẽ đổ bộ vào Hà Tĩnh và Quảng Trị vào chiều ngày 25/8 và được đánh giá mức độ nguy hiểm không kém Yagi năm 2024, thậm chí có thể mạnh hơn bão Doksuri năm 2017…
Kim ngạch xuất khẩu 8 tháng của Thanh Hóa đạt xấp xỉ 4,7 tỷ USD
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Thanh Hóa trong 8 tháng năm 2025 ước đạt 4,695 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ và bằng 58,7% kế hoạch năm. Đây là kết quả khả quan, cho thấy xuất khẩu tiếp tục là điểm sáng của kinh tế tỉnh trong bối cảnh nhiều khó khăn về thị trường và thời tiết.
Chiến lược “kiềng ba chân” để logistics xuyên biên giới vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng tốc
Hạ tầng logistics miền Trung hiện vẫn thiếu tính đồng bộ; kết nối giữa cảng biển - đường sắt - đường bộ - hàng không dù đang được đẩy mạnh đầu tư nhưng vẫn chưa phát huy hiệu quả tương xứng, khiến chi phí vận tải cao hơn so với mức trung bình khu vực. Trung tâm logistics hiện đại, có khả năng kết nối đa phương thức còn rất ít...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: