
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Bảy, 13/12/2025
Song Hà
21/03/2023, 13:51
Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản có lịch sử lâu đời, từng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên đóng góp của ngành vào GDP và lao động đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy việc quản trị tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam vẫn đang tồn tại nhiều bất cập...
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) vừa công bố kết quả nghiên cứu “Hướng tới một hệ thống quản trị tài nguyên tốt hơn - Cách tiếp cận kinh tế chính trị”. Kết quả cho thấy Việt Nam chỉ đáp ứng được 6/27 tiêu chí của quản trị tốt.
Theo các số liệu năm 2022, nước ta có 5.000 mỏ và điểm quặng (900 mỏ đang khai thác), thuộc 48 loại khoáng sản khác nhau như: bauxit, đất hiếm, than, apatit, đá hoa trắng, titan-zircon, sắt, đồng, chì kẽm, mangan, cromit, antimon, kim loại hiếm…
Số lượng doanh nghiệp trong ngành khai khoáng tăng nhanh chóng, năm 2019 là 3.804 doanh nghiệp, tăng gần 850 doanh nghiệp so với năm 2011. Trong đó doanh nghiệp tư nhân 3.700 (97,2%), doanh nghiệp nhà nước 62 (1,84%), doanh nghiệp FDI 30 (0,96%).
Đặc biệt trong số này có 1.935 doanh nghiệp khai thác đá (50,87%); 873 doanh nghiệp khai thác cát sỏi (22,95%); 330 doanh nghiệp khai thác kim loại (8,68%); 181 doanh nghiệp khai thác than (4,76%), trong đó 60% là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, doanh thu phần lớn đến từ ngành than (62,6%). Doanh thu từ doanh nghiệp khai thác đá đứng thứ hai (18,5%).
Cũng theo số liệu năm 2019, ngành khai khoáng đóng góp 1.491,2 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước, chỉ chiếm 0,61% tổng thu ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp ngành khai thác than là 788,4 tỷ đồng (52,9%); doanh nghiệp ngành khai thác đá 394,9 tỷ đồng (26,5%) và doanh nghiệp khai thác đất sét 6,3 tỷ đồng (0,4%).
Tổng lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp khai khoáng là 5.200 tỷ đồng. Doanh nghiệp khai thác đá có lợi nhuận cao nhất, 1.988,5 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có lợi nhuận 11 tỷ đồng. Doanh nghiệp khai thác than có lợi nhuận cao thứ hai, 1.860,5 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có lợi nhuận khoảng 5,64 tỷ đồng.
Về tổng giá trị và đóng góp vào GDP của ngành khai khoáng tại Việt Nam: giai đoạn 2005-2012 đóng góp 18,6 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4,37% GDP) năm 2005, tăng lên hơn 77,5 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 5,14% GDP) năm 2012; giai đoạn 2012-2020 đóng góp có xu hướng giảm (73,1 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 2,49% GDP năm 2020).
Số lượng lao động ngành khai khoáng tại Việt Nam giai đoạn 2011-2018 có xu hướng giảm, đặt ra bài toán về giải quyết việc làm đối với những lao động không còn làm việc trong ngành khai khoáng.
Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và ngay tại Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn. Năm 2018, tổng số lao động là 173 nghìn người, giảm 100 nghìn lao động so với 2011. Ngược lại, thu nhập bình quân có xu hướng tăng, gấp 2 lần, từ chưa đến 3 triệu đồng/tháng năm 2011 lên 6,7 triệu đồng/tháng năm 2018.
Đại diện nhóm nghiên cứu, ông Phạm Văn Long cho biết quản trị tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập. Kết quả đánh giá cho thấy Việt Nam chỉ đáp ứng được 6/27 tiêu chí của quản trị tốt; các tiêu chí đáp ứng đa số liên quan đến các quy định liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực khai khoáng.
Các thách thức đặt ra trong quá trình quản trị ngành công nghiệp khai thác tại Việt Nam chủ yếu liên quan đến các vấn đề về thể chế, chính sách, vấn đề minh bạch và trách nhiệm giải trình, công tác cấp phép khai thác, thu, quản lý và phân phối nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản.
Cụ thể, vẫn còn nhiều hoạt động khoáng sản chưa được quy định trong Luật Khoáng sản, cùng với đó là luật này vẫn chưa đồng bộ với các luật khác. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm. Hệ thống chính sách, luật pháp chưa thật sự quan tâm đến phát triển các hoạt động khoáng sản phía hạ nguồn. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan liên quan chưa tốt, một phần do tình trạng thiếu nhân lực, đặc biệt là nhân lực ở cấp cơ sở.
Về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, theo ông Long, tuy nhiều quy định về công khai đã được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng việc thực hiện còn chưa nghiêm túc. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của hoạt động khai khoáng đến cộng đồng dân cư chưa được quan tâm đúng mực. Tại một số địa phương, việc tham vấn người dân còn mang tính hình thức. Người dân thậm chí không biết đến sự tồn tại của “đánh giá tác động môi trường”.
Đáng quan ngại, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định về xử phạt khi cơ quan, địa phương không công khai, hoặc chậm công khai thông tin. Điều này có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu nghiêm túc trong công khai hồ sơ xin cấp phép thăm dò khoáng sản. Hầu hết các tiêu chí liên quan đến cấp giấy phép khai thác theo các nguyên tắc trong khung quản trị tài nguyên thiên nhiên đều chưa đạt tiêu chuẩn.
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 12-2023 phát hành ngày 20-03-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu cao hơn về chất lượng tăng trưởng, vấn đề thu hút đầu tư khu công nghiệp không còn chỉ là câu chuyện hạ tầng và ưu đãi, mà ngày càng gắn chặt với ngoại giao kinh tế, liên kết chuỗi giá trị và năng lực hội nhập chiến lược...
Kinh tế biển đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải chuyển sang mô hình phát triển xanh, hiện đại và quản trị dựa trên khoa học. Từ hạ tầng cảng biển, logistics, nuôi biển công nghiệp đến bảo tồn tài nguyên, nhiều “nút thắt” cần được tháo gỡ để khai mở không gian tăng trưởng mới, giữ vững lợi thế chiến lược của Việt Nam trên Biển Đông...
Xuất khẩu chanh leo của Việt Nam đang bứt phá mạnh mẽ, từ mức 20 triệu USD năm 2015 lên 222,5 triệu USD vào năm 2023 và đạt hơn 202 triệu USD chỉ trong 10 tháng năm 2025. Dự kiến xuất khẩu chanh leo cả năm 2025 sẽ lập mốc kỷ lục 240-250 triệu USD. Những con số ấn tượng này cho thấy tiềm năng lớn của ngành hàng, đồng thời đặt ra yêu cầu phát triển bền vững, bài bản theo chuỗi liên kết...
Tại IPFORUM 2025, các chuyên gia nhấn mạnh: khu công nghiệp Việt Nam cần xác lập hệ giá trị mới, chuyển từ vai trò cung cấp hạ tầng sang trung tâm kết nối chuỗi giá trị xanh, thông minh để thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao trong kỷ nguyên phát triển mới…
Bất chấp “cú sốc” thuế quan từ Mỹ hồi đầu năm, xuất khẩu Việt Nam vẫn tăng mạnh, vượt kỳ vọng. Dù thương mại tháng 11 có dấu hiệu chững lại, các chỉ số như PMI và đơn hàng xuất khẩu mới tiếp tục cho thấy triển vọng tích cực trong năm 2026…
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: