Để doanh nghiệp chuyển đổi số thành công
Chuyển đổi số đang là một đòi hỏi cấp bách, sống còn với các doanh nghiệp
Kinh tế số là xu thế phát triển tất yếu. Chuyển đổi số đang là một đòi hỏi cấp bách, sống còn với các doanh nghiệp hiện nay để tồn tại, phát triển, tăng sức cạnh tranh và bứt phá, nhất là trong bối cảnh cơn "bão" Covid vẫn đang hoành hành.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế số và tìm lời giải cho chuyển đổi số doanh nghiệp, ngày 11/11/2020 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, 35 Hùng Vương, Tạp chí Kinh tế Việt Nam phối hợp với Liên minh InvestGlobal tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp chuyển đổi số Việt Nam 2020 với chủ đề: "Thoát hiểm và bứt tốc sau Covid-19".
4 YẾU TỐ CẦN CÓ TRONG MỌI QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ
Ông Phạm Thế Trường - Tổng Giám đốc Microsoft Việt Nam
Trải qua những bất ổn kinh tế từ đại dịch Covid-19, chúng ta nhận thấy những doanh nghiệp số và những doanh nghiệp đã triển khai công nghệ số đều có khả năng chống chịu và vượt qua khủng hoảng nhanh hơn, đáp ứng được nhu cầu khách hàng tốt hơn.
Các doanh nghiệp này có khả năng phản ứng nhanh khi cuộc khủng hoảng ảnh hưởng, có nền tảng công nghệ vững chắc để phục hồi và đã bắt đầu hình dung lại về tương lai vì cách họ xác định thành công của ngày hôm qua không phải là chìa khóa cho sự thành công của ngày hôm nay. Khả năng phục hồi mà cụ thể là khả năng thích ứng nhanh chóng với các điều kiện thay đổi, đã trở thành một dấu hiệu cho sự thành công trong môi trường hiện nay.
Microsoft đã có cơ hội làm việc và hỗ trợ nhiều tổ chức và doanh nghiệp trên thế giới chuyển đổi số thành công. Dựa trên kinh nghiệm của mình, chúng tôi nhận thấy có 4 yếu tố quan trọng cần có trong mọi quá trình chuyển đổi số là: tầm nhìn và chiến lược; văn hóa; tiềm năng khác biệt; và năng lực.
Yếu tố đầu tiên đó là tầm nhìn & chiến lược. Nhiệm vụ bây giờ không đơn thuần là làm thế nào để có thể trở lại trạng thái bình thường như trước mà làm thế nào để doanh nghiệp có thể và trở nên kiên cường hơn trong một thế giới đã thay đổi. Tầm nhìn được thể hiện qua chiến lược. Cần suy nghĩ xa hơn những gì doanh nghiệp nghĩ là có thể, đặc biệt trong thời điểm mà tốc độ và sự nhanh nhạy là thiết yếu để tồn tại.
Thứ hai là văn hóa hỗ trợ chiến lược và tầm nhìn, cũng như kích hoạt và trao quyền cho nhân viên. Các tổ chức chuyển đổi số thành công khi toàn bộ nhân viên thống nhất và làm việc trên những giá trị và tầm nhìn mà họ được chia sẻ. Họ cần được tiếp cận với các ý tưởng, quy trình và công nghệ mới. Đó là những gì cần thiết để xây dựng khả năng phục hồi.
Thứ ba, doanh nghiệp nào khám phá được tiềm năng khác biệt của họ sẽ đáp ứng và thích nghi với hoàn cảnh dễ dàng hơn. Mọi tổ chức đều có những tiềm năng nhưng điều quan trọng là tìm ra một điểm khác biệt cụ thể, một điểm mấu chốt có thể khiến họ khác biệt theo một cách hoàn toàn mới.
Thứ tư, chúng tôi nhận thấy các tổ chức chuyển đổi số thành công nhất liên tục phát triển nhiều loại năng lực cho tổ chức mình. Đó có thể là năng lực về con người của tổ chức. Liệu con người có đủ kỹ năng phù hợp không? Họ có đủ nguồn lực cần thiết để thực hiện công việc không? Làm thế nào để con người được đào tạo và sẵn sàng làm việc theo những cách thức hoàn toàn mới?... Đó cũng có thể là công nghệ. Ví dụ như doanh nghiệp có công nghệ thích hợp để triển khai cho kinh doanh từ xa không? doanh nghiệp có hệ thống cho phép trao quyền cho nhân viên ở mọi nơi, mọi lúc không?...
CHUYỂN ĐỔI SỐ PHẢI TỪ 3 CHỮ H
TS. Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT, Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA)
Chuyển đổi số phải từ 3 chữ H (heart, head, hand). Đứng trước thách thức sống còn thì các doanh nghiệp Việt Nam đoàn kết lại, hành động tập thể. Chuyển đổi số trở thành từ khoá trong tất cả các câu chữ, đó là "Heart".
Một doanh nghiệp bất động sản hàng đầu Việt Nam từng nói với tôi: 10 năm trước em ước mơ sẽ trở thành doanh nghiệp tỷ phú, giờ chúng em đã thành tỷ phú. Em ước 10 năm nữa sẽ trở thành 10 tỷ phú và con đường duy nhất là chuyển đổi số nhanh, mạnh. Tôi nghĩ đây là thông điệp không phải có tính chất cá nhân mà là thông điệp từ cộng động.
Tuy nhiên đến "Head" thì có vấn đề. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam đều chưa hiểu chuyển đổi số thực chất là gì, phải làm thế nào, cái này là chuyển đổi số hay không, nếu muốn chuyển đổi số thì bắt đầu từ đâu, với ai...? Đó là vấn đề lớn. Cho nên Việt Nam rất cần những doanh nghiệp đi đầu làm chuyển đổi số cho chính mình. FPT đã triển khai chuyển đổi số từ 2 năm nay. Và bắt đầu triển khai chuyển đổi số cho những tập đoàn lớn của Việt Nam như Minh Phú...
Việc đi đầu này rất quan trọng để các doanh nghiệp khác học tập. Chúng tôi đang xây dựng những giải pháp số để cho các doanh nghiệp trong 1-2 tháng có thể dùng ngay, nâng cao hiệu suất lao động 50%, cắt giảm thời gian 90%...
Thứ 3 là "Hand" - bắt tay vào làm. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư mua nhà, mua xe với số tiền lớn thì không sao, nhưng mua các giải pháp công nghệ thông tin với mức giá chỉ bằng 1/3, 1/10 thì phải suy nghĩ. Nếu không có Covid thì doanh nghiệp đi rất chậm, nhưng giờ có Covid thì doanh nghiệp buộc phải bỏ tiền đầu tư.
Nói tóm lại, vấn đề 4.0 không thể giải quyết bằng con đường 3.0 trở xuống vì nó quá lớn. Để làm được 3 chữ "H" trên, 1 trong 3 cấu thành quan trọng của chuyển đổi số là chuyển đổi con người. Đầu tiên phải học lại.
Để chuyển đổi số cho FPT chúng tôi phải đào tạo trên 3,6 vạn người theo 3 cấp: cấp dùng, cấp triển khai và cấp tư vấn. Nếu đào tạo thông thường không biết khi nào xong, nhưng bằng ứng dụng thiết kế chương trình trực tuyến chỉ trong 2 tuần FPT đã đào tạo xong. Cấp thứ 2 là con người biết sử dụng công nghệ số. Nếu trong quá khứ có ý tưởng đổi mới cần đi 1 vòng từ chủ xuống dưới và đợi kỹ sư đến... Nhưng giờ xu hướng mới là mỗi 1 người trở thành những kỹ sư công nghệ thông tin xuất sắc.
Cấp thứ 3, chúng tôi sản xuất ra một robot giải quyết tự động hóa vài trăm quy trình kinh doanh. Do vậy, tôi cho rằng, những mục tiêu chuyển đổi số phải thực hiện bằng những con đường số, công nghệ mới, con đường mới. Việt Nam có 1 lực lượng kỹ sư công nghệ thông tin vượt trội so với nhu cầu trong nước, nhưng hầu hết phục vụ nước ngoài chưa phục vụ cho chuyển đổi số của Việt Nam.
SỨC MẠNH CỦA KHOA HỌC DỮ LIỆU
TS. Trần An Quân, Giám đốc kinh doanh - quản lý dự án, Công ty truyền số liệu Lotte Việt Nam, Tập đoàn Lotte
Tác động Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số là vô cùng to lớn, tích cực lên mọi khía cạnh kinh tế, đời sống loài người, mang lại nhiều cơ hội phát triển vượt bậc cho doanh nghiệp. Khoa học dữ liệu sẽ làm cho các hệ thống trở nên thông minh hơn và góp phần xây dựng nên một nền kinh tế số hội nhập, hiện đại. Từ đó, giúp con người tận dụng được tối đa tiềm năng của các nguồn dữ liệu lớn và có nhiều cơ hội thâm nhập sâu hơn vào dữ liệu, hỗ trợ đưa ra các quyết định tốt hơn trong nhiều lĩnh vực. Trong cuộc chạy đua công nghệ số, người thắng cuộc chính là người làm chủ các nguồn dữ liệu lớn.
Khi có một lượng đủ lớn thông tin, các dữ liệu sẽ được đưa vào xử lý thông qua các mô hình, trích xuất các giá trị từ dữ liệu để tìm ra các hiểu biết, các tri thức hành động, các quyết định dẫn dắt hành động. Từ đó, đưa ra những dự đoán về thói quen và hành vi của mỗi khách hàng. Dựa vào đó, doanh nghiệp có thể giới thiệu các sản phẩm phù hợp với nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng, tăng khả năng mua hàng, lại giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí. Đó là sức mạnh của khoa học dữ liệu.
Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam mới chỉ các ngân hàng, các công ty công nghệ tài chính (fintech), số ít các tập đoàn lớn đẩy mạnh ứng dụng nghiên cứu về AI, Big data trong hoạt động kinh doanh, như: Trung tâm phân tích dữ liệu lớn Viettel, Viện Nghiên cứu dữ liệu lớn (VinBDI) thuộc Tập đoàn Vingroup... Việt Nam chưa đào tạo phổ biến hay ứng dụng nhiều khoa học dữ liệu vào lĩnh vực kinh tế, kinh doanh do đây còn là hướng đi mới. Chính vì vậy, những ứng dụng của khoa học dữ liệu trong các ngành kinh tế tại Việt Nam còn hạn chế.
Đối với những doanh nghiệp nhỏ hơn hoàn toàn có thể ứng dụng quy mô nhỏ với chi phí ít hơn. Hai bộ công cụ Jupyter Notebook và Python, với đặc tính ngắn gọn và dễ sử dụng, giúp tiết kiệm chi phí, lại có tính ứng dụng thực tế cao, giải quyết được những bài toán của doanh nghiệp như: lĩnh vực học máy có thể được ứng dụng để phân loại đặc điểm, hành vi của khách hàng trong marketing, quản lý quyết định đầu tư và phát hiện gian lận trong lĩnh vực tài chính. Bằng thuật toán như mạng thần kinh nhân tạo, những công cụ này có thể tạo ứng dụng trợ lý ảo, để nhận thức và trả lời các câu hỏi của khách hàng...
ĐÃ CÓ NHỮNG KẾT QUẢ KHẢ QUAN
Ông Trần Công Quỳnh Lân, Phó Tổng giám đốc VietinBank
Đại dịch Covid-19 đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chưa có tiền lệ trong lịch sử đối với các chính phủ, doanh nghiệp và xã hội. Đại dịch là hồi chuông cảnh cáo cho các công ty cần có kế hoạch đối phó với sự gián đoạn để đảm bảo hoạt động kinh doanh liên tục. Điều này báo hiệu sự gia tăng đáng kể của quá trình chuyển đổi số trong các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Về phía các ngân hàng, quá trình chuyển đổi số đã diễn ra mạnh mẽ trong vài năm trở lại đây khi những nền tảng kinh doanh truyền thống bị rung lắc dữ dội bởi Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Theo đó, VietinBank chủ động thực hiện chuyển đổi số trên toàn hệ thống và đã cho những kết quả khả quan ban đầu.
Thứ nhất, VietinBank thực hiện chuyển đổi trải nghiệm khách hàng thông qua các kênh phân phối. VietinBank iPay - ứng dụng ngân hàng số hiện đại có sự chuyển đổi đột phá từ giao diện trải nghiệm đến tính năng, sản phẩm dịch vụ đã ra mắt vào năm 2019. Đến nay, sau gần 1 năm triển khai, số lượng khách hàng sử dụng tăng gấp 1,5 lần so với năm 2019, số lượng giao dịch tăng hơn 2,2 lần. Ngoài ra, chúng tôi đang phối hợp với các hệ sinh thái như Grab, MoMo, Tiki, Lazada, Vietel... để tăng trải nghiệm của khách hàng.
Với việc hướng tới ngân hàng mở - Open Banking, chúng tôi đã cung cấp API về kênh giao dịch tài chính để các ứng dụng khác có thể gọi đến API của VietinBank. Do vậy kênh của VietinBank bây giờ không chỉ giới hạn ở những kênh truyền thống do ngân hàng cung cấp mà còn là những kênh là đối tác của VietinBank. Điều này sẽ giúp khách hàng trải nghiệm dịch vụ một các dễ dàng hơn, không chỉ giới hạn trên kênh hay ứng dụng của VietinBank nữa.
Thứ hai, VietinBank đang thực hiện đầu tư vào công nghệ robotic để tự động hóa quy trình. VietinBank đã tích cực rà soát lại toàn bộ quy trình, chính sách văn bản, sản phẩm để có thể chọn lọc ra những quy trình đầu tiên sẽ ứng dụng robot và học máy. Dự kiến đến cuối năm nay, một số quy trình quan trọng sẽ được tự động hoàn toàn bằng robotic.
Chatbot là một ví dụ minh họa cho việc áp dụng trí tuệ nhân tạo, học máy khá thành công ở VietinBank hiện nay. Ngân hàng đang triển khai 4 bot nội bộ với lượt tương tác với cán bộ trong việc tìm hiểu chính sách, sản phẩm dịch vụ hay thực hiện các thủ tục hành chính nội bộ lên tới hơn 200 nghìn lượt tương tác.
Thứ ba là ứng dụng Big Data và trí tuệ nhân tạo để tìm hiểu nhu cầu khách hàng cũng như tăng năng suất lao động. Qua hơn 1 năm triển khai, các bài toán về phân tích năng suất lao động giúp cải thiện đáng kể giờ đóng cửa chi nhánh; các bài toán phân tích chi phí đối với một sản phẩm dịch vụ cụ thể đã giúp cắt giảm tương đối chi phí không cần thiết cho sản phẩm đó; các bài toán phân tích hành vi khách hàng giúp VietinBank đưa ra các giải pháp sản phẩm tối ưu hơn cho cả khách hàng và ngân hàng; các bài toán thu thập dữ liệu phục vụ cho các công tác cảnh báo sớm rủi ro cũng đã được áp dụng và đối chiếu hiệu quả cao.
TRỌNG TÂM LÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ
TS. Nguyễn Trọng Đường, Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN với cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin khá tốt. Tuy nhiên, để nắm bắt tốt, tận dụng phát triển những lợi thế đó, Việt Nam cần phải đặt ra các mục tiêu rất cụ thể cho việc chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, để tạo nền móng vững chắc trong lĩnh vực này.
Do đó, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt ban hành "Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" với ba trụ cột chính gồm: xây dựng Chính phủ số, phát triển kinh tế số và xã hội số. Đây là kim chỉ nam cho các định hướng phát triển, thực hiện.
Đối với kinh tế số phải đạt mục tiêu chiếm 20% trong tổng số GDP năm 2025, năng suất lao động tăng 7%, các ngành, lĩnh vực tối thiểu 10%, đứng top 50 quốc gia đạt chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu, an toàn thông tin mạng; xã hội số đạt mục tiêu mỗi người dân có điện thoại thông minh, cáp quang đến 100% xã, phường, 50% tối thiểu người dân có tài khoản thanh toán ngân hàng, Internet...
Chương trình xác định 8 lĩnh vực ưu tiên cho chuyển đổi số như: y tế, giáo dục và đào tạo, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải và logistics.
Bên cạnh đó, chương trình cũng xác định các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về công nghệ thông tin sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0, phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Để hỗ trợ khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số, đề án cần cụ thể. Như làm ứng dụng trong mobile để doanh nghiệp click vào đó có thể hỏi được mọi thứ về pháp lý, xuất nhập khẩu, đào tạo trực tuyến... Và nội dung nữa là hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số.
DỮ LIỆU LÀ TÀI NGUYÊN MỚI CHO NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU
Ông Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, dữ liệu có thể trở thành tài nguyên mới cho phát triển kinh tế toàn cầu, dữ liệu ngày nay còn được ví như dầu mỏ mới. Với xu hướng này, ưu thế sẽ thuộc về người làm chủ các nguồn dữ liệu thông qua việc quản lý, sử dụng chúng một cách thông minh trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới.
Do đó, để có thể phát huy được lợi thế của mình trong việc sở hữu khối lượng lớn về dữ liệu, giữ vai trò tiên phong trong hành trình chuyển đổi mô hình hoạt động theo xu hướng số, quản lý dữ liệu thông minh trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính đã trở thành một yêu cầu cấp thiết, thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học, các tổ chức tín dụng, các công ty công nghệ tài chính và các công ty công nghệ lớn.
Theo khảo sát tháng 9/2020 của Ngân hàng Nhà nước, đã có 50% các ngân hàng xây dựng kho dữ liệu tập trung, 27% đã xây dựng các hồ dữ liệu để thu thập dữ liệu thô đến từ các điểm tiếp xúc số, khoảng 50% các ngân hàng đã ứng dụng phân tích dữ liệu để tối ưu hóa quy trình vận hành, tăng hiệu quả hoạt động, quản trị rủi ro. Tuy nhiên quá trình xây dựng hệ thống quản trị dữ liệu cũng đang gặp phải nhiều khó khăn và thách thức.
Do đó Ngân hàng Nhà nước sẽ hỗ trợ đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng thông qua một số định hướng: Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với cuộc cách mạng 4.0, tạo thuận lợi và thúc đẩy các mô hình kinh doanh, quản trị điều hành trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng bứt phá, đổi mới, sáng tạo, nhưng vẫn chú trọng tới công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm hạn chế những rủi ro, thách thức trong bối cảnh bùng nổ công nghệ số.
Xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ theo hướng đồng bộ, tập trung, thống nhất, có khả năng tích hợp, kết nối với các ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số, nâng cao chất lượng phục vụ và tăng tính tiện ích, trải nghiệm cho khách hàng; ưu tiên đầu tư, ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ của
Cuộc cách mạng 4.0 vào hoạt động ngân hàng; ưu tiên phát triển ngân hàng theo mô hình ngân hàng số, trong đó lấy thanh toán số là làm cửa ngõ để kết nối liền mạch với các dịch vụ ngân hàng khác như huy động, cho vay, đầu tư, bảo hiểm... và giao tiếp thuận tiện với các hệ sinh thái số bên ngoài nhằm cung ứng các sản phẩm, dịch vụ an toàn, tiện lợi, cá nhân hóa với chi phí hợp lý và sự tường minh.
Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước sẽ coi nguồn nhân lực ngân hàng có chất lượng là nhân tố quyết định thành công trong chuyển đổi số ngân hàng, phát triển ngân hàng số tại Việt Nam và theo đó sẽ chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành ngân hàng, giúp người lao động ngành ngân hàng được trang bị những kỹ năng, phát triển năng lực thích ứng với bối cảnh 4.0.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngân hàng số nhờ quy mô dân số lớn với 96 triệu người, cơ cấu dân số vàng với khoảng 56 triệu người tham gia thị trường lao động và tỷ lệ người dân sở hữu điện thoại thông minh trên 72%, 62 triệu thuê bao kết nối Internet...
Nắm được lợi thế này, thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều chính sách thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và hiện nay, phần lớn các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và xây dựng mô hình ngân hàng số.