Đưa hàng Việt về nông thôn: Còn nhiều gian nan
Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao chia sẻ kinh nghiệm đưa hàng Việt về nông thôn
Ngày 26/6 vừa qua, Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao tiếp tục phối hợp với chính quyền tỉnh Hòa Bình tổ chức phiên chợ hàng Việt về nông thôn.
Như vậy, sau 1 năm thực hiện, đến nay đã có 42 phiên chợ được tổ chức tại 17 tỉnh trên cả nước nhằm mục đích giúp các doanh nghiệp Việt Nam củng cố và xây dựng hệ thống phân phối vững mạnh ở nông thôn.
Tuy nhiên, theo bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, nếu doanh nghiệp nào chỉ nghĩ thuần túy đi bán hàng một lần, tính toán chi, thu và đảm bảo về vốn, có lời thì doanh nghiệp đó không theo chương trình lâu được.
Sau một năm tổ chức các phiên chợ hàng Việt về nông thôn, bà có thể cho biết những đổi thay trong nhận thức và hành động của người tiêu dùng đối với hàng Việt?
Chúng tôi nhận được rất nhiều phản hồi từ phía người tiêu dùng nông thôn: “Bây giờ dùng hàng Việt Nam lại thấy an tâm hơn”, an tâm hơn là vì hàng Việt không bị các vấn nạn như sản phẩm có độc tố, an tâm vì được người bán hàng hướng dẫn sử dụng và cam đoan bảo hành, an tâm hơn vì thấy logo Hàng Việt Nam chất lượng cao, an tâm hơn khi thấy người bán hàng mang sản phẩm chính hãng tới tận nơi ở của họ để bán, và chắc chắn an tâm hơn bởi sau khi bán hàng thì doanh nghiệp vẫn để đại lý và mạng lưới phân phối lại.
Trước khi các phiên chợ hàng Việt Nam về nông thôn diễn ra, chúng tôi tiến hành quảng bá trên loa, đài, băng rôn và phương tiện thông tin lưu động trước một tuần lễ để qua đó, người tiêu dùng nông thôn có thêm thông tin về chương trình. Tôi đã thấy rất nhiều người dân nông thôn đến lần đầu là để xem, lần thứ hai là để mua các mặt hàng có giá trị nhỏ, lần thứ ba mua những món hàng có giá trị cao hơn.
Một số doanh nghiệp đã chia sẻ rằng họ tham gia chỉ là để ủng hộ chương trình chứ bán hàng về nông thôn không phải là mục tiêu của họ. Bà nghĩ thế nào về quan điểm này?
Có thể có những doanh nghiệp tham gia là để ủng hộ nhà tổ chức, ủng hộ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, lợi ích của doanh nghiệp vẫn là yếu tố đầu tiên phải tính đến. Nếu doanh nghiệp nào chỉ nghĩ thuần túy đi bán hàng một lần, tính toán chi, thu và đảm bảo về vốn, có lời thì doanh nghiệp đó không theo chương trình lâu được.
Hơn nữa, chúng tôi đi vào những nơi rất xa, khó khăn về giao thông, những nơi mà từ trước tới nay doanh nghiệp chưa bao giờ đến. Do đó, nếu doanh nghiệp nào quan niệm rằng chương trình là một điểm tựa để xâm nhập vào thị trường nông thôn, thì doanh nghiệp đó sẽ khám phá được giá trị mà những phiên chợ hàng Việt về nông thôn mang lại.
Có những chợ huyện có đến 90% là hàng hóa Trung Quốc và sản phẩm không có nhãn mác. Tôi cho rằng, tại những nơi như vậy thì càng cần phải có hàng hóa của Việt Nam để người tiêu dùng có thể lựa chọn và so sánh khách quan theo lợi ích tiêu dùng, qua đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được mạng lưới phân phối, cạnh tranh để tìm đất sống cho hàng Việt ở nông thôn.
Tính đến bài toán kinh tế, nhiều doanh nghiệp tham gia bán hàng về nông thôn đã bị thua lỗ, nhưng họ vẫn gắn bó với chương trình để củng cố được hệ thống phân phối ở địa phương, bà có nhận định gì?
Tâm lý của nhà phân phối ở địa phương bao giờ cũng muốn có một sự an toàn, tức là có lợi nhuận, thậm chí lợi nhuận không nhiều, chứ họ không hướng tới lợi nhuận lớn với rủi ro lớn. Nếu doanh nghiệp tính tới việc mở rộng thị phần tại thị trường nông thôn thì phải chấp nhận đầu tư tốn kém. Còn nếu chỉ nghĩ tới chuyện sẽ bán hàng, gia tăng thị phần bằng bất cứ giá nào, và nhà phân phối cũng đi tìm lợi nhuận bằng bất cứ giá nào, không ai nghĩ cùng chia sẻ khó khăn trong bước đầu thì cuộc “hôn nhân” đó tất yếu sẽ tan vỡ.
Với kinh nghiệm tích lũy sau hơn 40 phiên chợ hàng Việt về nông thôn, theo bà đâu là hướng đi phù hợp và hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp?
Cuộc cạnh tranh giữa hàng Việt với những mặt hàng giá rẻ, không nhãn mác, không nguồn gốc xuất xứ rõ ràng còn đang rất quyết liệt. Tôi biết nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang mổ xẻ những lợi thế cạnh tranh, tìm hướng liên kết với nhau, thay đổi quy cách mẫu mã cho phù hợp với thị trường nông thôn.
Nhưng thực tế một số doanh nghiệp còn ngần ngại tham gia cạnh tranh, bởi tiềm lực tài chính rất hạn chế. Thế nên mới cần có sự hỗ trợ của Bộ Công Thương đối với những doanh nghiệp đưa hàng Việt về nông thôn, còn vai trò của doanh nghiệp là tích hợp với mạng lưới phân phối ở địa phương để mở rộng dần con đường đi của hàng Việt.
Sau 1 năm thực hiện chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, tôi thấy rằng con đường này còn rất dài. Không thể nói sau hơn 40 phiên chợ tại 17 tỉnh trên cả nước có thể kết luận được gì ngay, bởi những nơi chúng tôi đến chỉ là "tráng qua một lớp men", khởi động bước đầu. Bởi sau đó, người tiêu dùng nông thôn có thể mua sản phẩm ở đâu thì phải có mạng lưới của chính các doanh nghiệp đưa đến.
Lĩnh vực công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà sản xuất, điều này ảnh hưởng như thế nào khi doanh nghiệp đưa hàng về nông thôn, thưa bà?
Tại Việt Nam, chợ bán nguyên phụ liệu chỉ đếm được trên đầu ngón tay và quy mô rất nhỏ. Tôi nghĩ chừng nào Nhà nước còn chưa đầu tư đúng mức cho chính sách xây dựng công nghiệp phụ trợ thì chúng ta đừng nói cạnh tranh với hàng giá rẻ.
Hiện chúng ta có một đường hẹp là cạnh tranh với hàng hiệu, hàng chất lượng trung bình và trên trung bình nhưng cũng không dễ, bởi đi vào ngách này phải bỏ ra rất nhiều tiền để làm thương hiệu. Còn nếu cạnh tranh bằng hàng giá thấp, với thực lực của công nghiệp phụ trợ hiện nay thì rất khó.
Cho nên với nguyên phụ liệu nhập khẩu, doanh nghiệp phải tính toán để đảm bảo chất lượng ổn định, giữ uy tín với người tiêu dùng, tiết kiệm chi phí quản lý để giá thành sản phẩm có thể cạnh tranh được.
Như vậy, sau 1 năm thực hiện, đến nay đã có 42 phiên chợ được tổ chức tại 17 tỉnh trên cả nước nhằm mục đích giúp các doanh nghiệp Việt Nam củng cố và xây dựng hệ thống phân phối vững mạnh ở nông thôn.
Tuy nhiên, theo bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, nếu doanh nghiệp nào chỉ nghĩ thuần túy đi bán hàng một lần, tính toán chi, thu và đảm bảo về vốn, có lời thì doanh nghiệp đó không theo chương trình lâu được.
Sau một năm tổ chức các phiên chợ hàng Việt về nông thôn, bà có thể cho biết những đổi thay trong nhận thức và hành động của người tiêu dùng đối với hàng Việt?
Chúng tôi nhận được rất nhiều phản hồi từ phía người tiêu dùng nông thôn: “Bây giờ dùng hàng Việt Nam lại thấy an tâm hơn”, an tâm hơn là vì hàng Việt không bị các vấn nạn như sản phẩm có độc tố, an tâm vì được người bán hàng hướng dẫn sử dụng và cam đoan bảo hành, an tâm hơn vì thấy logo Hàng Việt Nam chất lượng cao, an tâm hơn khi thấy người bán hàng mang sản phẩm chính hãng tới tận nơi ở của họ để bán, và chắc chắn an tâm hơn bởi sau khi bán hàng thì doanh nghiệp vẫn để đại lý và mạng lưới phân phối lại.
Trước khi các phiên chợ hàng Việt Nam về nông thôn diễn ra, chúng tôi tiến hành quảng bá trên loa, đài, băng rôn và phương tiện thông tin lưu động trước một tuần lễ để qua đó, người tiêu dùng nông thôn có thêm thông tin về chương trình. Tôi đã thấy rất nhiều người dân nông thôn đến lần đầu là để xem, lần thứ hai là để mua các mặt hàng có giá trị nhỏ, lần thứ ba mua những món hàng có giá trị cao hơn.
Một số doanh nghiệp đã chia sẻ rằng họ tham gia chỉ là để ủng hộ chương trình chứ bán hàng về nông thôn không phải là mục tiêu của họ. Bà nghĩ thế nào về quan điểm này?
Có thể có những doanh nghiệp tham gia là để ủng hộ nhà tổ chức, ủng hộ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, lợi ích của doanh nghiệp vẫn là yếu tố đầu tiên phải tính đến. Nếu doanh nghiệp nào chỉ nghĩ thuần túy đi bán hàng một lần, tính toán chi, thu và đảm bảo về vốn, có lời thì doanh nghiệp đó không theo chương trình lâu được.
Hơn nữa, chúng tôi đi vào những nơi rất xa, khó khăn về giao thông, những nơi mà từ trước tới nay doanh nghiệp chưa bao giờ đến. Do đó, nếu doanh nghiệp nào quan niệm rằng chương trình là một điểm tựa để xâm nhập vào thị trường nông thôn, thì doanh nghiệp đó sẽ khám phá được giá trị mà những phiên chợ hàng Việt về nông thôn mang lại.
Có những chợ huyện có đến 90% là hàng hóa Trung Quốc và sản phẩm không có nhãn mác. Tôi cho rằng, tại những nơi như vậy thì càng cần phải có hàng hóa của Việt Nam để người tiêu dùng có thể lựa chọn và so sánh khách quan theo lợi ích tiêu dùng, qua đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được mạng lưới phân phối, cạnh tranh để tìm đất sống cho hàng Việt ở nông thôn.
Tính đến bài toán kinh tế, nhiều doanh nghiệp tham gia bán hàng về nông thôn đã bị thua lỗ, nhưng họ vẫn gắn bó với chương trình để củng cố được hệ thống phân phối ở địa phương, bà có nhận định gì?
Tâm lý của nhà phân phối ở địa phương bao giờ cũng muốn có một sự an toàn, tức là có lợi nhuận, thậm chí lợi nhuận không nhiều, chứ họ không hướng tới lợi nhuận lớn với rủi ro lớn. Nếu doanh nghiệp tính tới việc mở rộng thị phần tại thị trường nông thôn thì phải chấp nhận đầu tư tốn kém. Còn nếu chỉ nghĩ tới chuyện sẽ bán hàng, gia tăng thị phần bằng bất cứ giá nào, và nhà phân phối cũng đi tìm lợi nhuận bằng bất cứ giá nào, không ai nghĩ cùng chia sẻ khó khăn trong bước đầu thì cuộc “hôn nhân” đó tất yếu sẽ tan vỡ.
Với kinh nghiệm tích lũy sau hơn 40 phiên chợ hàng Việt về nông thôn, theo bà đâu là hướng đi phù hợp và hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp?
Cuộc cạnh tranh giữa hàng Việt với những mặt hàng giá rẻ, không nhãn mác, không nguồn gốc xuất xứ rõ ràng còn đang rất quyết liệt. Tôi biết nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang mổ xẻ những lợi thế cạnh tranh, tìm hướng liên kết với nhau, thay đổi quy cách mẫu mã cho phù hợp với thị trường nông thôn.
Nhưng thực tế một số doanh nghiệp còn ngần ngại tham gia cạnh tranh, bởi tiềm lực tài chính rất hạn chế. Thế nên mới cần có sự hỗ trợ của Bộ Công Thương đối với những doanh nghiệp đưa hàng Việt về nông thôn, còn vai trò của doanh nghiệp là tích hợp với mạng lưới phân phối ở địa phương để mở rộng dần con đường đi của hàng Việt.
Sau 1 năm thực hiện chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, tôi thấy rằng con đường này còn rất dài. Không thể nói sau hơn 40 phiên chợ tại 17 tỉnh trên cả nước có thể kết luận được gì ngay, bởi những nơi chúng tôi đến chỉ là "tráng qua một lớp men", khởi động bước đầu. Bởi sau đó, người tiêu dùng nông thôn có thể mua sản phẩm ở đâu thì phải có mạng lưới của chính các doanh nghiệp đưa đến.
Lĩnh vực công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà sản xuất, điều này ảnh hưởng như thế nào khi doanh nghiệp đưa hàng về nông thôn, thưa bà?
Tại Việt Nam, chợ bán nguyên phụ liệu chỉ đếm được trên đầu ngón tay và quy mô rất nhỏ. Tôi nghĩ chừng nào Nhà nước còn chưa đầu tư đúng mức cho chính sách xây dựng công nghiệp phụ trợ thì chúng ta đừng nói cạnh tranh với hàng giá rẻ.
Hiện chúng ta có một đường hẹp là cạnh tranh với hàng hiệu, hàng chất lượng trung bình và trên trung bình nhưng cũng không dễ, bởi đi vào ngách này phải bỏ ra rất nhiều tiền để làm thương hiệu. Còn nếu cạnh tranh bằng hàng giá thấp, với thực lực của công nghiệp phụ trợ hiện nay thì rất khó.
Cho nên với nguyên phụ liệu nhập khẩu, doanh nghiệp phải tính toán để đảm bảo chất lượng ổn định, giữ uy tín với người tiêu dùng, tiết kiệm chi phí quản lý để giá thành sản phẩm có thể cạnh tranh được.