Giá trị thương hiệu và trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, dưới góc nhìn của một đại biểu Quốc hội, TS. Trần Văn
Sau 130 năm thành lập, ngày nay General Electric (GE) là một tập đoàn đa quốc gia có trên 300 nghìn nhân viên, kinh doanh tại trên 100 quốc gia trong nhiều lĩnh vực từ năng lượng, giao thông vận tải, thiết bị y tế, dịch vụ tài chính và nghiên cứu, phát triển công nghệ..., với doanh thu năm 2009 đạt 157 tỷ Đô la Mỹ.
Có một "bí quyết" giúp làm nên cơ đồ của GE, đó là tập đoàn này đã xây dựng và thực thi nghiêm túc các quy tắc công dân doanh nghiệp - một cách gọi khác nữa của trách nhiệm xã hội, văn hóa doanh nghiệp.
Cụ thể, chỉ số phát triển bền vững Dow Jones (DJSI) thể hiện trong quản lý an toàn sản phẩm, xử lý chất thải, tiết kiệm năng lượng và cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường của GE luôn đạt 100 điểm. Đây là chỉ số xếp hạng uy tín nhất trên thế giới trong lĩnh vực phát triển doanh nghiệp bền vững. Nhờ đó, giá thị thương hiệu của GE hiện chiếm tới 40% giá trị của doanh nghiệp.
Bộ quy tắc ứng xử của GE quy định rõ ràng chỉ số minh bạch cùng cam kết đạo đức hành xử của nhân viên trong doanh nghiệp. Các nhà thầu của GE cũng phải cam kết đạt chuẩn về chất lượng, sản xuất, dịch vụ y tế cho người lao động.
Các quy tắc công dân doanh nghiệp của GE đảm bảo cho công ty hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh, tối ưu hóa lợi nhuận và hành xử có trách nhiệm đối với xã hội. Bất kỳ một sự cố nào xảy ra đều được phát hiện và báo cáo kịp thời lên cấp lãnh đạo cao nhất và các bộ phận có chức năng kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ lập tức tiến hành sự giám sát cần thiết để phòng ngừa những diễn biến bất lợi đối với doanh nghiệp, cho dù ở bất kỳ cấp độ nào, bộ phận nào của tập đoàn.
Với các quy định chặt chẽ như vậy, GE có thể giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trong toàn cầu hóa, phát triển doanh nghiệp bền vững dựa trên yếu tố con người, công nghệ, sáng tạo,... đáp ứng được kỳ vọng của 5 triệu cổ đông đại chúng trên khắp thế giới khi đầu tư vào tập đoàn.
Nhìn về Việt Nam, sau những gì đã xảy ra với Vedan, Tung Kuang, Vinamit,... có lẽ cần trở lại với vấn đề xây dựng và thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hay có thể nói là văn hóa doanh nghiệp tại nước ta.
Trước những thông tin về sự hủy hoại môi trường, môi sinh, ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc đồng áng của hàng vạn nông dân trong cả một vùng rộng lớn, chắc hẳn những cổ đông của các doanh nghiệp này cũng chẳng sung sướng gì khi nhận những đồng cổ tức được chia từ lợi nhuận mà doanh nghiệp có được do né tránh việc xử lý nước thải. Việc người tiêu dùng từ chối sử dụng sản phẩm hay dịch vụ của các doanh nghiệp này cũng là điều dễ hiểu.
Không chỉ riêng các doanh nghiệp nói trên mà nói chung, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thực ra chưa chú trọng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của mình và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chưa trở thành văn hóa doanh nghiệp.
Có thể kể ra nhiều hình thức doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội của mình. Ví dụ, việc doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng nhái, đưa vào lưu thông hàng hóa kém chất lượng, không thực hiện các cam kết của mình với khách hàng, lũng đoạn thị trường,... cũng là cách mà doanh nghiệp né tránh trách nhiệm xã hội của mình.
Ngay cả các doanh nghiệp làm lãng phí, thất thoát, sử dụng không hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, thực tế là tiền đóng thuế của người dân và doanh nghiệp, cũng là những biểu hiện thiếu trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với cộng đồng, gắn hoạt động của doanh nghiệp với các tiêu chuẩn khắt khe về môi trường, hỗ trợ cộng đồng trên nhiều phương diện. Theo đó, bên cạnh các tiêu chí về sử dụng công nghệ cao, sạch, thân thiện với môi trường, giảm được bao nhiêu khí thải carbon, các chất khí hủy hoại tầng ozone, gây biến đổi khí hậu trái đất,... là tính minh bạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trách nhiệm giải trình của lãnh đạo doanh nghiệp trước các cơ quan quản lý nhà nước.
Các quy tắc ứng xử nội bộ, kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các hành động tiêu cực có thể xảy ra trong quản trị doanh nghiệp như báo cáo sai sự thật về kết quả sản xuất - kinh doanh, lợi dụng chức vụ, quyền hạn thu vén cho quyền lợi cá nhân, tham nhũng, hối lộ để được thắng thầu,...
Để thực hiện trách nhiệm xã hội, trước hết cần phải có sự thống nhất cao trong doanh nghiệp, sự tuân thủ các quy định của nhà nước, của bản thân các doanh nghiệp về quản trị doanh nghiệp, các quy tắc nội bộ về kiểm soát, kiểm toán hoạt động, về đạo đức kinh doanh. Những hoạt động này cần xuất phát từ nhu cầu thực tế xây dựng văn hóa doanh nghiệp, phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực.
Bên cạnh đó là cơ chế phát hiện tiêu cực thông qua hệ thống cảnh báo sớm dựa trên các tiêu chí và thước đo khác nhau, báo cáo, điều tra nội bộ, hệ thống giải quyết khiếu nại nội bộ, trách nhiệm báo cáo của nhân viên khi phát hiện vụ việc tiêu cực. Cuối cùng là vấn đề phản ứng như thế nào khi vụ việc được phát hiện.
Như vậy, trách nhiệm xã hội không phải là cái mà doanh nghiệp có thể có được ngay. Đó là cả một quá trình lâu dài, vừa xây dựng, vừa rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong quá khứ để hướng tới một tương lai bền vững.
Cùng với báo cáo tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tài liệu không thể thiếu được khi doanh nghiệp báo cáo với cổ đông. Đối với những doanh nghiệp niêm yết thì yêu cầu này càng trở nên khắt khe hơn. Giá trị của thương hiệu, của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nội dung của báo cáo này.
Để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, xây dựng giá trị thương hiệu, cần tiếp tục hoàn thiện, thể chế hóa giá trị thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, tạo khung khổ pháp lý để tính toán, đưa vào giá trị tài sản của doanh nghiệp trong góp vốn liên doanh, liên kết, chuyển nhượng, hợp nhất doanh nghiệp... Các tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp, xếp hạng doanh nghiệp độc lập cũng nên nghiên cứu, công bố, xếp hạng giá trị thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp trong nước theo các tiêu chí, mô hình quốc tế hàng năm để doanh nghiệp nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của thực thi trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên, cho dù quy định thế nào đi nữa trong các văn bản quy phạm pháp luật thì hệ thống quy định nội bộ của doanh nghiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ vẫn là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Không cần những chương trình PR, quảng cáo hoành tráng, ấn tượng hay các chương trình xã hội hào nhoáng, uy tín thương hiệu, danh tiếng của doanh nghiệp được xây dựng và củng cố hàng ngày, dần trở thành giá trị cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục đích của kinh doanh, nhưng thực thi trách nhiệm xã hội là nền tảng phát triển bền vững không chỉ của từng doanh nghiệp và của cả một quốc gia. Các công ty có trách nhiệm với xã hội thường tạo ra những đột phá trong kinh doanh, đạt được những chỉ tiêu về lợi nhuận, thị trường đáng tự hào, trong khi lại không hủy hoại môi trường, tiêu tốn quá mức tài nguyên thiên nhiên, năng lượng hóa thạch không thể tái tạo.
Đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh với trách nhiệm xã hội chính là sự lựa chọn hợp lý nhất và thường cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao trong dài hạn, bởi vì, người tiêu dùng luôn dành sự lựa chọn cho những sản phẩm và dịch vụ biết trân trọng tài nguyên, thiên nhiên, môi trường và cơ hội sống công bằng cho tất cả các thế hệ hôm nay và mai sau.
* Tác giả bài viết là Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách, đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau.
Có một "bí quyết" giúp làm nên cơ đồ của GE, đó là tập đoàn này đã xây dựng và thực thi nghiêm túc các quy tắc công dân doanh nghiệp - một cách gọi khác nữa của trách nhiệm xã hội, văn hóa doanh nghiệp.
Cụ thể, chỉ số phát triển bền vững Dow Jones (DJSI) thể hiện trong quản lý an toàn sản phẩm, xử lý chất thải, tiết kiệm năng lượng và cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường của GE luôn đạt 100 điểm. Đây là chỉ số xếp hạng uy tín nhất trên thế giới trong lĩnh vực phát triển doanh nghiệp bền vững. Nhờ đó, giá thị thương hiệu của GE hiện chiếm tới 40% giá trị của doanh nghiệp.
Bộ quy tắc ứng xử của GE quy định rõ ràng chỉ số minh bạch cùng cam kết đạo đức hành xử của nhân viên trong doanh nghiệp. Các nhà thầu của GE cũng phải cam kết đạt chuẩn về chất lượng, sản xuất, dịch vụ y tế cho người lao động.
Các quy tắc công dân doanh nghiệp của GE đảm bảo cho công ty hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh, tối ưu hóa lợi nhuận và hành xử có trách nhiệm đối với xã hội. Bất kỳ một sự cố nào xảy ra đều được phát hiện và báo cáo kịp thời lên cấp lãnh đạo cao nhất và các bộ phận có chức năng kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ lập tức tiến hành sự giám sát cần thiết để phòng ngừa những diễn biến bất lợi đối với doanh nghiệp, cho dù ở bất kỳ cấp độ nào, bộ phận nào của tập đoàn.
Với các quy định chặt chẽ như vậy, GE có thể giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trong toàn cầu hóa, phát triển doanh nghiệp bền vững dựa trên yếu tố con người, công nghệ, sáng tạo,... đáp ứng được kỳ vọng của 5 triệu cổ đông đại chúng trên khắp thế giới khi đầu tư vào tập đoàn.
Nhìn về Việt Nam, sau những gì đã xảy ra với Vedan, Tung Kuang, Vinamit,... có lẽ cần trở lại với vấn đề xây dựng và thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hay có thể nói là văn hóa doanh nghiệp tại nước ta.
Trước những thông tin về sự hủy hoại môi trường, môi sinh, ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc đồng áng của hàng vạn nông dân trong cả một vùng rộng lớn, chắc hẳn những cổ đông của các doanh nghiệp này cũng chẳng sung sướng gì khi nhận những đồng cổ tức được chia từ lợi nhuận mà doanh nghiệp có được do né tránh việc xử lý nước thải. Việc người tiêu dùng từ chối sử dụng sản phẩm hay dịch vụ của các doanh nghiệp này cũng là điều dễ hiểu.
Không chỉ riêng các doanh nghiệp nói trên mà nói chung, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thực ra chưa chú trọng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của mình và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chưa trở thành văn hóa doanh nghiệp.
Có thể kể ra nhiều hình thức doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội của mình. Ví dụ, việc doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng nhái, đưa vào lưu thông hàng hóa kém chất lượng, không thực hiện các cam kết của mình với khách hàng, lũng đoạn thị trường,... cũng là cách mà doanh nghiệp né tránh trách nhiệm xã hội của mình.
Ngay cả các doanh nghiệp làm lãng phí, thất thoát, sử dụng không hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, thực tế là tiền đóng thuế của người dân và doanh nghiệp, cũng là những biểu hiện thiếu trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với cộng đồng, gắn hoạt động của doanh nghiệp với các tiêu chuẩn khắt khe về môi trường, hỗ trợ cộng đồng trên nhiều phương diện. Theo đó, bên cạnh các tiêu chí về sử dụng công nghệ cao, sạch, thân thiện với môi trường, giảm được bao nhiêu khí thải carbon, các chất khí hủy hoại tầng ozone, gây biến đổi khí hậu trái đất,... là tính minh bạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trách nhiệm giải trình của lãnh đạo doanh nghiệp trước các cơ quan quản lý nhà nước.
Các quy tắc ứng xử nội bộ, kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các hành động tiêu cực có thể xảy ra trong quản trị doanh nghiệp như báo cáo sai sự thật về kết quả sản xuất - kinh doanh, lợi dụng chức vụ, quyền hạn thu vén cho quyền lợi cá nhân, tham nhũng, hối lộ để được thắng thầu,...
Để thực hiện trách nhiệm xã hội, trước hết cần phải có sự thống nhất cao trong doanh nghiệp, sự tuân thủ các quy định của nhà nước, của bản thân các doanh nghiệp về quản trị doanh nghiệp, các quy tắc nội bộ về kiểm soát, kiểm toán hoạt động, về đạo đức kinh doanh. Những hoạt động này cần xuất phát từ nhu cầu thực tế xây dựng văn hóa doanh nghiệp, phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực.
Bên cạnh đó là cơ chế phát hiện tiêu cực thông qua hệ thống cảnh báo sớm dựa trên các tiêu chí và thước đo khác nhau, báo cáo, điều tra nội bộ, hệ thống giải quyết khiếu nại nội bộ, trách nhiệm báo cáo của nhân viên khi phát hiện vụ việc tiêu cực. Cuối cùng là vấn đề phản ứng như thế nào khi vụ việc được phát hiện.
Như vậy, trách nhiệm xã hội không phải là cái mà doanh nghiệp có thể có được ngay. Đó là cả một quá trình lâu dài, vừa xây dựng, vừa rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong quá khứ để hướng tới một tương lai bền vững.
Cùng với báo cáo tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tài liệu không thể thiếu được khi doanh nghiệp báo cáo với cổ đông. Đối với những doanh nghiệp niêm yết thì yêu cầu này càng trở nên khắt khe hơn. Giá trị của thương hiệu, của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nội dung của báo cáo này.
Để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, xây dựng giá trị thương hiệu, cần tiếp tục hoàn thiện, thể chế hóa giá trị thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, tạo khung khổ pháp lý để tính toán, đưa vào giá trị tài sản của doanh nghiệp trong góp vốn liên doanh, liên kết, chuyển nhượng, hợp nhất doanh nghiệp... Các tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp, xếp hạng doanh nghiệp độc lập cũng nên nghiên cứu, công bố, xếp hạng giá trị thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp trong nước theo các tiêu chí, mô hình quốc tế hàng năm để doanh nghiệp nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của thực thi trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên, cho dù quy định thế nào đi nữa trong các văn bản quy phạm pháp luật thì hệ thống quy định nội bộ của doanh nghiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ vẫn là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Không cần những chương trình PR, quảng cáo hoành tráng, ấn tượng hay các chương trình xã hội hào nhoáng, uy tín thương hiệu, danh tiếng của doanh nghiệp được xây dựng và củng cố hàng ngày, dần trở thành giá trị cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục đích của kinh doanh, nhưng thực thi trách nhiệm xã hội là nền tảng phát triển bền vững không chỉ của từng doanh nghiệp và của cả một quốc gia. Các công ty có trách nhiệm với xã hội thường tạo ra những đột phá trong kinh doanh, đạt được những chỉ tiêu về lợi nhuận, thị trường đáng tự hào, trong khi lại không hủy hoại môi trường, tiêu tốn quá mức tài nguyên thiên nhiên, năng lượng hóa thạch không thể tái tạo.
Đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh với trách nhiệm xã hội chính là sự lựa chọn hợp lý nhất và thường cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao trong dài hạn, bởi vì, người tiêu dùng luôn dành sự lựa chọn cho những sản phẩm và dịch vụ biết trân trọng tài nguyên, thiên nhiên, môi trường và cơ hội sống công bằng cho tất cả các thế hệ hôm nay và mai sau.
* Tác giả bài viết là Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách, đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau.