Ngộ ra với tín dụng nông nghiệp nông thôn…
Khi nước rút, tín dụng nông nghiệp nông thôn nổi lên như một mảnh đất mới và như đang được tập trung gieo trồng
Ngày 30/12/2013, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), được điều chuyển và bổ nhiệm vào vị trí Phó ban Kinh tế Trung ương. Ở đây có một sự dang dở…
Từ vị trí Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), công việc của ông Bảo gắn với thực tế sống động hơn khi làm Chủ tịch Agribank, từ tháng 7/2011. Những lần tiếp xúc với báo chí sau đó, điều mà ông say sưa nhất luôn là tín dụng nông nghiệp nông thôn.
Sau khi nước rút…
Với Agribank, thay đổi nhân sự nói trên là một sự dang dở. Ngay những ngày đầu về đây, mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra cho ông Nguyễn Ngọc Bảo là thực hiện thành công quá trình tái cơ cấu ngân hàng rộng lớn nhất trong hệ thống này. Chỉ hơn hai năm, kế hoạch chưa thành.
Thế nhưng, có thể thấy ông Bảo cũng đã kịp để lại dấu ấn tại Agribank; và ngược lại, Agribank hẳn cũng đã ảnh hưởng đến nhãn quan của một người có nhiều thời gian làm chính sách và quản lý hơn là kinh doanh.
Sau một thời gian điều hành Agribank, ông Bảo đưa ra đúc kết, đại ý: Agribank rơi vào khó khăn, nợ xấu cao không phải do trục hoạt động chính là cho vay nông nghiệp nông thôn, mà chủ yếu do hệ lụy lệch trục khi sa vào các mảng tín dụng khác, điển hình là bất động sản… Quyết tâm mà nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Agribank đặt ra hai năm trước là lái ngân hàng trở lại đúng quỹ đạo - tập trung hơn nữa cho khu vực nông nghiệp nông thôn.
Ông Bảo liên tục đi công tác địa phương. Ước tính, để đi làm việc với tất cả các chi nhánh thì phải mất tới 7 năm. Có dịp gặp báo chí, ông lại say sưa với thực tế cho vay nuôi bò, thả cá, làm nông…, gắn với sự tin tưởng nợ xấu là hạn chế mà đồng vốn trở nên thiết thực hơn, ngân hàng cũng sống tốt. Và sau hơn hai năm, dấu ấn ông để lại tại Agribank là đã đẩy được tỷ trọng tín dụng nông nghiệp nông thôn từ khoảng 60% lên hơn 70%.
Cũng khoảng hơn hai năm về trước, trong lần trò chuyện với VnEconomy, một lãnh đạo của Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) hào hứng nói về hiệu quả nổi bật của ngân hàng mình, mà điểm nhấn cũng là khách hàng khu vực nông nghiệp nông thôn.
Ngân hàng nhỏ nhất trong hệ thống nổi lên ở các chỉ số sinh lời, mà đóng góp rất lớn là từ khu vực đồng bằng sông Cửu Long, địa bàn chính là Đồng Tháp. “Không như nhiều ngân hàng khác nghi ngại, cho vay nông nghiệp nông thôn rất tốt và có khách hàng bền vững, đóng góp quan trọng cho kết quả kinh doanh. Nếu có dịp mời bạn đi thực tế tại các tỉnh phía Nam thì sẽ thấy”, vị lãnh đạo trên của PG Bank từng nói.
Nhưng rồi PG Bank sớm rơi vào khó khăn, nợ xấu tăng đột biến và phải tính hướng sáp nhập, hợp nhất. Nguyên do chính đến từ sự đổ vỡ một số mối quan hệ tín dụng với khách hàng lớn, ở các lĩnh vực ngoài nông nghiệp nông thôn. Có thể thấy, PG Bank từng và sẽ sống tốt với những khoản huy động và cho vay nhỏ lẻ của các hộ dân và doanh nghiệp liên quan, nhưng cũng rất dễ tổn thương và điêu đứng nếu dính rủi ro chỉ với một vài ông lớn ngạch khác.
Ở những điển hình như Agribank hay PG Bank, tín dụng nông nghiệp nông thôn vẫn thủy chung một giá trị. Và dường như chỉ đến khi cơn sốt tăng trưởng tín dụng những năm 2007-2010 đi qua, nước rút và để lại những hệ lụy của việc nhồi vốn quá tập trung hoặc quá lớn vào những mảng như chứng khoán, bất động sản, hay cho các “ông lớn”, các nhà băng mới thực sự để mắt đến và ưu ái hơn cho mảnh đất nông nghiệp nông thôn.
Dễ thấy trong hai năm trở lại đây, tín dụng nông nghiệp nông thôn trở thành lĩnh vực “hót” trong hoạch định chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Hàng loạt các chương trình, gói ưu đãi, cơ chế khuyến khích… được đưa ra. Tốc độ tăng trưởng cũng bắt đầu cải thiện nhanh. Và, trong khi cả hệ thống nhức nhối với nợ xấu, thì ở khu vực này vẫn khá dễ chịu.
Chung quy vẫn vì nghèo!
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), đến cuối tháng 4/2014, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn (không bao gồm của Ngân hàng Chính sách xã hội) ước đạt 685.426 tỷ đồng, tăng 2% so với cuối 2013, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng chung 0,62%; nợ xấu chỉ chiếm 2,83%.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của chuyên gia, tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn hiện vẫn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Nếu giai đoạn 2002 - 2008 tỷ trọng xấp xỉ đạt 30%, thì đến nay mới chỉ lên hơn 20% sau khi giảm về khoảng 18% vào năm 2009.
Tại một hội thảo gần đây, chuyên gia Vũ Đình Ánh nhìn nhận: “Khu vực nông nghiệp nông thôn vẫn thiếu cả vốn dành cho sản xuất kinh doanh cũng như vốn dành cho đời sống sinh hoạt, thị trường tín dụng đen vẫn còn nhiều đất sống, các vụ vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng nông nghiệp nông thôn hầu như không giảm…”.
Cũng theo ông Ánh, do khu vực này chịu nhiều rủi ro thiên tai, mất mùa, dịch bệnh…, do thu nhập quá thấp nên vẫn còn nhiều trường hợp phải vay nóng với “lãi suất cắt cổ” để mua sắm thiết bị, tư liệu sản xuất, hay thậm chí chỉ làm sao để xoay kịp tiền đóng học cho con cái, để chữa bệnh…
Có nhiều nguyên do để giải thích cho việc khó tiếp cận vốn, song theo chuyên gia Vũ Đình Ánh, tựu chung lại vẫn là những hạn chế nằm trong phương thức sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay gắn với cái “vòng kim cô” thu nhập thấp; nghèo nên thiếu vốn để phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư vào máy móc công nghệ để tăng năng suất, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao trình độ…
Biện pháp trước mắt mà chuyên gia này đề xuất thực hiện ngay là tăng khả năng tiếp cận vốn thông qua xác lập cơ chế thực thi đơn giản và rõ ràng để rút ngắn khoảng cách giữa chính sách với thực tế triển khai; cần xây dựng ngay một cơ chế bảo lãnh tín dụng cho nông nghiệp nông thôn và nông dân, thay vì phải cầm cố hay “nộp” giấy sử dụng đất - tài sản gần như duy nhất đáng giá của họ.
Phía Ngân hàng Nhà nước cũng đã tích cực hơn trong nghiên cứu xây dựng và triển khai các chính sách, chương trình cụ thể để thúc đẩy, như gần đây là việc triển khai mô hình tín dụng liên kết 4 nhà trong nông nghiệp, tín dụng tái canh cây cà phê, chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển…, bên cạnh các hướng cho vay truyền thống và cơ bản.
Hay nỗ lực đơn lẻ như chương trình 10.000 tỷ đồng cho vay thay đổi cơ cấu cây trồng trong đề án phát triển cây mắc ca khu vực Tây Nguyên mà Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) vừa xây dựng và đề xuất. Lãnh đạo ngân hàng này cũng đã sang Úc và Nhật, hai thị trường chính của đầu ra cây mắc ca, để tìm hiểu, kết nối các chuyên gia và tìm kiếm nhà đầu tư.
Nhưng tất cả những kế hoạch, chương trình, đề án có tính chất đổi mới nói trên chủ yếu mới chỉ ở bước đầu thử nghiệm, bước đầu triển khai hoặc đang trong quá trình từng bước xử lý các vướng mắc.
Dù sao thì qua đó cũng cho thấy yêu cầu và giá trị của tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đã được “ngộ ra” và khẳng định thêm một bước. Trước khi chờ đợi có khả năng đột phá thực sự thì cần có những bước khởi đầu cụ thể như vậy, hay ít nhất là nỗ lực bước đầu để có thể tạo nên thay đổi trong tương lai.
Từ vị trí Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), công việc của ông Bảo gắn với thực tế sống động hơn khi làm Chủ tịch Agribank, từ tháng 7/2011. Những lần tiếp xúc với báo chí sau đó, điều mà ông say sưa nhất luôn là tín dụng nông nghiệp nông thôn.
Sau khi nước rút…
Với Agribank, thay đổi nhân sự nói trên là một sự dang dở. Ngay những ngày đầu về đây, mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra cho ông Nguyễn Ngọc Bảo là thực hiện thành công quá trình tái cơ cấu ngân hàng rộng lớn nhất trong hệ thống này. Chỉ hơn hai năm, kế hoạch chưa thành.
Thế nhưng, có thể thấy ông Bảo cũng đã kịp để lại dấu ấn tại Agribank; và ngược lại, Agribank hẳn cũng đã ảnh hưởng đến nhãn quan của một người có nhiều thời gian làm chính sách và quản lý hơn là kinh doanh.
Sau một thời gian điều hành Agribank, ông Bảo đưa ra đúc kết, đại ý: Agribank rơi vào khó khăn, nợ xấu cao không phải do trục hoạt động chính là cho vay nông nghiệp nông thôn, mà chủ yếu do hệ lụy lệch trục khi sa vào các mảng tín dụng khác, điển hình là bất động sản… Quyết tâm mà nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Agribank đặt ra hai năm trước là lái ngân hàng trở lại đúng quỹ đạo - tập trung hơn nữa cho khu vực nông nghiệp nông thôn.
Ông Bảo liên tục đi công tác địa phương. Ước tính, để đi làm việc với tất cả các chi nhánh thì phải mất tới 7 năm. Có dịp gặp báo chí, ông lại say sưa với thực tế cho vay nuôi bò, thả cá, làm nông…, gắn với sự tin tưởng nợ xấu là hạn chế mà đồng vốn trở nên thiết thực hơn, ngân hàng cũng sống tốt. Và sau hơn hai năm, dấu ấn ông để lại tại Agribank là đã đẩy được tỷ trọng tín dụng nông nghiệp nông thôn từ khoảng 60% lên hơn 70%.
Cũng khoảng hơn hai năm về trước, trong lần trò chuyện với VnEconomy, một lãnh đạo của Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) hào hứng nói về hiệu quả nổi bật của ngân hàng mình, mà điểm nhấn cũng là khách hàng khu vực nông nghiệp nông thôn.
Ngân hàng nhỏ nhất trong hệ thống nổi lên ở các chỉ số sinh lời, mà đóng góp rất lớn là từ khu vực đồng bằng sông Cửu Long, địa bàn chính là Đồng Tháp. “Không như nhiều ngân hàng khác nghi ngại, cho vay nông nghiệp nông thôn rất tốt và có khách hàng bền vững, đóng góp quan trọng cho kết quả kinh doanh. Nếu có dịp mời bạn đi thực tế tại các tỉnh phía Nam thì sẽ thấy”, vị lãnh đạo trên của PG Bank từng nói.
Nhưng rồi PG Bank sớm rơi vào khó khăn, nợ xấu tăng đột biến và phải tính hướng sáp nhập, hợp nhất. Nguyên do chính đến từ sự đổ vỡ một số mối quan hệ tín dụng với khách hàng lớn, ở các lĩnh vực ngoài nông nghiệp nông thôn. Có thể thấy, PG Bank từng và sẽ sống tốt với những khoản huy động và cho vay nhỏ lẻ của các hộ dân và doanh nghiệp liên quan, nhưng cũng rất dễ tổn thương và điêu đứng nếu dính rủi ro chỉ với một vài ông lớn ngạch khác.
Ở những điển hình như Agribank hay PG Bank, tín dụng nông nghiệp nông thôn vẫn thủy chung một giá trị. Và dường như chỉ đến khi cơn sốt tăng trưởng tín dụng những năm 2007-2010 đi qua, nước rút và để lại những hệ lụy của việc nhồi vốn quá tập trung hoặc quá lớn vào những mảng như chứng khoán, bất động sản, hay cho các “ông lớn”, các nhà băng mới thực sự để mắt đến và ưu ái hơn cho mảnh đất nông nghiệp nông thôn.
Dễ thấy trong hai năm trở lại đây, tín dụng nông nghiệp nông thôn trở thành lĩnh vực “hót” trong hoạch định chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Hàng loạt các chương trình, gói ưu đãi, cơ chế khuyến khích… được đưa ra. Tốc độ tăng trưởng cũng bắt đầu cải thiện nhanh. Và, trong khi cả hệ thống nhức nhối với nợ xấu, thì ở khu vực này vẫn khá dễ chịu.
Chung quy vẫn vì nghèo!
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), đến cuối tháng 4/2014, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn (không bao gồm của Ngân hàng Chính sách xã hội) ước đạt 685.426 tỷ đồng, tăng 2% so với cuối 2013, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng chung 0,62%; nợ xấu chỉ chiếm 2,83%.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của chuyên gia, tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn hiện vẫn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Nếu giai đoạn 2002 - 2008 tỷ trọng xấp xỉ đạt 30%, thì đến nay mới chỉ lên hơn 20% sau khi giảm về khoảng 18% vào năm 2009.
Tại một hội thảo gần đây, chuyên gia Vũ Đình Ánh nhìn nhận: “Khu vực nông nghiệp nông thôn vẫn thiếu cả vốn dành cho sản xuất kinh doanh cũng như vốn dành cho đời sống sinh hoạt, thị trường tín dụng đen vẫn còn nhiều đất sống, các vụ vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng nông nghiệp nông thôn hầu như không giảm…”.
Cũng theo ông Ánh, do khu vực này chịu nhiều rủi ro thiên tai, mất mùa, dịch bệnh…, do thu nhập quá thấp nên vẫn còn nhiều trường hợp phải vay nóng với “lãi suất cắt cổ” để mua sắm thiết bị, tư liệu sản xuất, hay thậm chí chỉ làm sao để xoay kịp tiền đóng học cho con cái, để chữa bệnh…
Có nhiều nguyên do để giải thích cho việc khó tiếp cận vốn, song theo chuyên gia Vũ Đình Ánh, tựu chung lại vẫn là những hạn chế nằm trong phương thức sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay gắn với cái “vòng kim cô” thu nhập thấp; nghèo nên thiếu vốn để phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư vào máy móc công nghệ để tăng năng suất, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao trình độ…
Biện pháp trước mắt mà chuyên gia này đề xuất thực hiện ngay là tăng khả năng tiếp cận vốn thông qua xác lập cơ chế thực thi đơn giản và rõ ràng để rút ngắn khoảng cách giữa chính sách với thực tế triển khai; cần xây dựng ngay một cơ chế bảo lãnh tín dụng cho nông nghiệp nông thôn và nông dân, thay vì phải cầm cố hay “nộp” giấy sử dụng đất - tài sản gần như duy nhất đáng giá của họ.
Phía Ngân hàng Nhà nước cũng đã tích cực hơn trong nghiên cứu xây dựng và triển khai các chính sách, chương trình cụ thể để thúc đẩy, như gần đây là việc triển khai mô hình tín dụng liên kết 4 nhà trong nông nghiệp, tín dụng tái canh cây cà phê, chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển…, bên cạnh các hướng cho vay truyền thống và cơ bản.
Hay nỗ lực đơn lẻ như chương trình 10.000 tỷ đồng cho vay thay đổi cơ cấu cây trồng trong đề án phát triển cây mắc ca khu vực Tây Nguyên mà Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) vừa xây dựng và đề xuất. Lãnh đạo ngân hàng này cũng đã sang Úc và Nhật, hai thị trường chính của đầu ra cây mắc ca, để tìm hiểu, kết nối các chuyên gia và tìm kiếm nhà đầu tư.
Nhưng tất cả những kế hoạch, chương trình, đề án có tính chất đổi mới nói trên chủ yếu mới chỉ ở bước đầu thử nghiệm, bước đầu triển khai hoặc đang trong quá trình từng bước xử lý các vướng mắc.
Dù sao thì qua đó cũng cho thấy yêu cầu và giá trị của tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đã được “ngộ ra” và khẳng định thêm một bước. Trước khi chờ đợi có khả năng đột phá thực sự thì cần có những bước khởi đầu cụ thể như vậy, hay ít nhất là nỗ lực bước đầu để có thể tạo nên thay đổi trong tương lai.