Phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi ở Tây Nguyên để giảm nhập khẩu
Hàng năm nước ta vẫn chi hơn 9 tỷ USD để nhập khẩu hơn 20 triệu tấn các loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Tây Nguyên được đánh giá là có lợi thế để phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam, thế nhưng vẫn thiếu các chính sách thúc đẩy sản xuất ngô, sắn tại khu vực này…
Ngày 5/01/2023 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Tổ chức Phát triển hợp tác xã Hà Lan (Agriterra) tổ chức Hội thảo đánh giá triển vọng phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi ở Tây Nguyên.
THỨC ĂN LÀ THÁCH THỨC LỚN NHẤT CỦA NGÀNH CHĂN NUÔI
Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết năm 2022, ngành chăn nuôi của Việt Nam tăng trưởng 5,93%, chiếm hơn 20% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Thức ăn chăn nuôi hiện chiếm khoảng 70% giá thành sản xuất của sản phẩm chăn nuôi.
Thời gian qua, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp ở Việt Nam đã tăng trưởng ngoạn mục, đạt bình quân từ 13%-15%/năm. Điều này đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 10 thế giới và số 1 khu vực Đông Nam Á về sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp, xếp trên cả Thái Lan và Indonesia.
Tuy vậy, trong bối cảnh hậu Covid 19 và một số sự kiện thế giới đã dẫn đến sự leo thang giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi bao gồm chiến tranh Nga-Ukraine, xung đột chính trị gây đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát và chi phí lưu kho và vận chuyển hàng hóa tăng cao.
Những năm qua, có một nghịch lý đó là Việt Nam là nước nông nghiệp, có không ít mặt hàng nông sản xuất khẩu đứng nhất, nhì thế giới. Tuy nhiên, hàng năm nước ta vẫn chi nhiều tỷ USD để nhập khẩu các loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.
Năm 2021, Việt Nam nhập khẩu 22,3 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi với giá trị là 9,07 tỉ USD. Đây chính là một thách thức lớn nhất trong ngành chăn nuôi của Việt Nam hiện nay.
“Sự phụ thuộc này được dự báo còn tiếp diễn lâu dài nếu chúng ta không có những chiến lược tổng thể, bài bản, sự hợp tác và vào cuộc quyết liệt của các bên liên quan gồm chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ, các nhà khoa học và người sản xuất”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
"Năng suất trồng ngô ở Tây Nguyên cao so với các vùng khác của cả nước (năng suất bình quân năm 2021 đạt 5,99 so với 4,93 tấn/ha của cả nước). So sánh hiệu quả kinh tế cho thấy cây ngô và cây sắn có khả năng cạnh tranh khá cao với các cây hàng năm khác ở Tây Nguyên. Giá ngô, sắn không quá cao, có khả năng cạnh tranh với ngô nhập khẩu (ngô: 5500 - 8000đ/kg; sắn: 4400 - 5500đ/kg)".
Ông Thái Hồng Lam – chuyên gia tư vấn kinh doanh cao cấp của Agriterra.
Ông Thái Hồng Lam – chuyên gia tư vấn kinh doanh cao cấp của Agriterra - Tổ chức hỗ trợ phát triển nông nghiệp hiện diện toàn cầu, cho biết Agriterra đã tiến hành nghiên cứu về sản xuất và thị trường ngô, sắn tại khu vực Tây Nguyên. Các tỉnh được khảo sát có thế mạnh về diện tích sản xuất lớn, điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết thích hợp cho sản xuất ngô và sắn, đặc biệt là Gia Lai và Đăk Lắk.
Tuy nhiên cho đến nay, các dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ chủ yếu tập trung vào cây công nghiệp và cây ăn quả mà chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực ngô và sắn. Nhiều công nghệ tiên tiến về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản, chế biến sắn chậm phát triển hoặc đưa vào sản xuất ở mức độ khiêm tốn.
Nhiều vùng trồng sắn, ngô còn độc canh, kỹ thuật không bền vững dẫn đến cạn kiệt chất dinh dưỡng của đất và suy thoái môi trường. Cơ giới hóa trong sản xuất sắn và ngô còn hạn chế.
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH VỚI NGUYÊN LIỆU NHẬP KHẨU
Theo ông Thái Hồng Lam, thị trường ngô, sắn ở Tây Nguyên vẫn thiếu tổ chức, phụ thuộc vào nhiều thương lái, đại lý và thiếu vai trò của các doanh nghiệp đầu mối. Liên kết giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, kinh doanh còn yếu. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn cao do phụ thuộc vào thời tiết và hạn chế về công nghệ.
Đối với ngành hàng sắn, thị trường đầu ra hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường Trung Quốc. Đối với ngàng hàng ngô, chưa có nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi quy mô lớn. Hầu hết các sản phẩm ngô được sấy khô và nghiền, không được chế biến tận sâu, dẫn đến đầu ra không ổn định và giá trị sản phẩm cuối cùng thấp.
Nghiên cứu chỉ ra rằng vẫn còn nhiều cơ hội để gia tăng giá trị theo chuỗi giá trị, bao gồm việc đưa các giống mới năng suất cao, kháng bệnh, áp dụng các gói kỹ thuật phù hợp, bón phân cân đối, tăng cường cơ giới hóa trong quá trình sản xuất, củng cố hệ thống và công nghệ thủy lợi, áp dụng công nghệ bảo quản, chế biến, rút ngắn dây chuyền trong các khâu thu gom, vận chuyển.
Ông Willemink Arno, Giám đốc Vận hành Công ty De Heus Việt Nam cho biết là một Tập đoàn lớn trong lĩnh vực chăn nuôi, hàng năm De Heus sử dụng khoảng 3,2 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trong đó ngô từ 800.000 – 1,1 triệu tấn (hiện 95% phải nhập khẩu, tương đương giá trị 6.700 – 9.250 tỷ đồng/năm); từ 100.000 – 300.000 tấn sắn lát; chưa kể đậu tương và nhiều nguyên liệu khác cũng phải nhập khẩu. Trong khi đó, ngô và sắn có tiềm năng rất lớn nếu sử dụng nguyên liệu trong nước.
"De Heus đã làm việc với Viện Nghiên cứu Ngô, khẳng định nếu trồng ngô tại Tây Nguyên với giống tốt và quy trình canh tác bài bản thì năng suất sẽ đạt khoảng 9 tấn/ha với việc sử dụng giống ngô biến đổi gen, kháng sâu bệnh tốt”.
Giám đốc Vận hành Công ty De Heus Việt Nam.
Theo ông Willemink Arno, những yếu tố quyết định đến việc doanh nghiệp có mua ngô trong nước hay không, đó là giá cả và chất lượng. Trong đó, ngô hạt nội địa thường có độ ẩm cao hơn, biến động về chất lượng nhiều hơn, kích thước hạt nhỏ hơn, nhiều hạt hỏng và vật thể lạ, thường xuyên xuất hiện yếu tố nấm mốc.
"Ngô Việt Nam để cạnh tranh với ngô Nam Mỹ về giá cả, chất lượng, thì phải tập trung giảm chi phí và nâng cao năng suất, như áp dụng những kỹ thuật tiên tiến hơn vào trồng trọt, sử dụng phân bón hiệu quả hơn; nâng cao công nghệ chế biến (khâu thu hoạch và sấy khô), bảo quản sau thu hoạch. Đặc biệt là thu hẹp khoảng cách giá giữa người nông dân và người mua cuối cùng, tức là giảm khâu trung gian", ông Arno nhấn mạnh.
Ông Arno cũng cho biết nghiên cứu của Agriterra tại Tây Nguyên và kinh nghiệm De Heus chỉ ra rằng nông dân nhận được mức giá thấp hơn nhiều so với giá mà De Heus phải trả cho người mua cuối. Vì vậy, để bà con hào hứng trồng sắn, ngô, phải có những hợp tác xã đóng vai trò là người thu gom/đại lý.
"Hiện mỗi tháng De Heus cần cung cấp từ 70.000 – 100.000 tấn ngô. De Heus cũng sẽ chú trọng vào việc sử dụng các phụ phẩm của sắn do các nhà máy sản xuất tinh bột cung ứng. Hiện chưa có nhà máy thức ăn nào ở khu vực Tây Nguyên, và De Heus sẵn sàng đầu tư một nhà máy thức ăn nếu chúng ta có thể đáp ứng được số lượng cũng như chất lượng cho ngô, sắn", ông Arno nhấn mạnh thêm.
De Heus đề nghị Chính phủ xem xét hỗ trợ, tạo tác động toàn diện ở tất cả các khâu của chuỗi giá trị ngô và sắn để nâng cao năng lực cạnh tranh với nguyên liệu nhập khẩu.
Thứ nhất, hỗ trợ thành lập và phát triển hợp tác xã ngô và sắn để nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ cho nông dân trong sản xuất, bảo quản, chế biến nhằm nâng cao quy mô, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
Thứ hai, quy hoạch vùng sản xuất ngô, sắn gắn tập chung với cơ sở hạ tầng, trung tâm chế biến, bảo quản.
Thứ ba, chuyển đổi một số diện tích cây trồng có hiệu quả kinh tế kém xang trồng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.
Thứ tư, đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh như thủy lợi, giao thông, kho bãi, hậu cần cho vùng trồng ngô để giảm chi phí vận chuyển cũng như các chi phí hậu cần khác.
Thứ năm, tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển giống mới, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ tưới tiêu, kỹ thuật canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm và hạ giá thành.