Quản trị, quản lý tác nghiệp, chìa khóa để mở chiến lược
Các nhà lãnh đạo của những doanh nghiệp hàng đầu thế giới vẫn khẳng định “người nào việc nấy, đúng lúc, đúng nơi”
Thế kỷ 20, từng thời kỳ, dưới sự thôi thúc, áp lực của thị trường, quần thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ đã phải thay đổi cách quản trị, quản lý khâu tác nghiệp, khâu biến chiến lược, sách lược thành hiện thực.
Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 đang chứng kiến những sự thay đổi, xã hội và cộng đồng người tiêu dùng có những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường, các chính sách an sinh cho người lao động, sự an toàn của thực phẩm.
Thử nhìn lại một cách đơn giản nhưng đủ nghĩa, việc quản trị và quản lý tác nghiệp là như thế nào, đóng vai trò ra sao trong sự thành bại của một doanh nghiệp.
Sơ đồ trên đây cho ta hình dung được là khâu “tác nghiệp” liên quan đến 90-95% trong chu trình tạo ra sản phẩm.
Từ đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1980, sự phân bố chức năng trong một doanh nghiệp thường là theo lối từ trên xuống “top down”.
Thứ nhất, ban giám đốc tổ chức, điều hành chu trình sản xuất để sản phẩm (hữu hình hay dịch vụ) được thực hiện đúng như mong muốn.
Thứ hai, quản trị/quản lý tác nghiệp chỉ giới hạn là thi hành đúng, ngày qua ngày, từng hay một số công đoạn tạo ra sản phẩm.
Ở các nền công nghiệp phát triển nhanh và mạnh, giai đoạn từ thập niên 1960-1980, đã đảo lộn sự vận hành tác nghiệp. Khi tư tưởng, tư duy nhắm đến “sự hài lòng của khách hàng” là thước đo chính, thì hệ quả chính của nó là quản lý chất lượng, chất lượng toàn diện... Mà muốn thực hiện điều này thì thông tin phải được đi từ dưới lên trên “bottom up”, chính những ai ở gần khách hàng nhất, trực tiếp với các nhà cung ứng nhất của cả hai khâu “đầu vào” và “đầu ra” thì mới nắm được thông tin hoàn hảo nhất để “liên tục làm tốt hơn nữa sản phẩm, dịch vụ”.
Thêm vào đó, sự phát triển cực kỳ nhanh của nền công nghiệp thông tin, vừa phục vụ rất hiệu quả mọi khâu quản trị, đặc biệt quản trị tác nghiệp, lại vừa làm cho con người lao động trực tiếp “lệ thuộc” vào “máy móc mà mình sử dụng” - Nói cách khác, tính chuyên nghiệp, tri thức ngày càng nâng cao, dây chuyền tác nghiệp càng phức tạp nên khoa học theo tư duy Taylor không còn ứng dụng được nữa.
Trong khoảng thời gian đó, sự cạnh tranh đã buộc cộng đồng doanh nghiệp đưa cách sản xuất “Just in time”, “zero stock” (giảm tối đa hàng tồn kho) vào cuộc càng làm tính quản trị, quản lý tác nghiệp trở thành vừa phức tạp, vừa là khâu quan trọng nhất cho sự tồn tại ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hai thập niên cuối của thế kỷ 20 là khoảng thời gian bùng nổ của số lượng doanh nghiệp được thành lập và tỷ lệ các doanh nghiệp phá sản cũng cao nhất. Ngay các tập đoàn, doanh nghiệp có kinh nghiệm lâu đời cũng tan biến trong vùng xoáy tác nghiệp không hữu hiệu.
Vì thế, mô hình quản trị vĩ mô/quản trị tác nghiệp của cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 có thể minh họa như hình trên.
Trong khi mô hình mới này là để đáp ứng các yêu cầu của thời đại, thì có nhiều ban tổng giám đốc, ban giám đốc điều hành không biết tạo dựng một nền quản trị/quản lý tác nghiệp thực sự có tính tự chủ, ủy quyền cao. Ngược lại, còn có khuynh hướng “làm thay”. Và cũng nên lưu ý rằng con người “cầm trịch” quản trị tác nghiệp là thành viên quan trọng của ban tổng giám đốc
Nền quản trị, quản lý tác nghiệp, dĩ nhiên, là hệ quả của chiến lược kinh doanh của ban tổng giám đốc, cốt lõi nhất là chọn những sản phẩm/dịch vụ gì cho hiện tại, tương lai và với sách lược gì.
Các nhà lãnh đạo của những doanh nghiệp hàng đầu thế giới vẫn khẳng định “người nào việc nấy, đúng lúc, đúng nơi”. Đó là nguyên lý vẫn còn giá trị quản trị của nó. Và quản trị tác nghiệp chính là “bây giờ” và “nơi đây” cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, ban tổng giám đốc, nhờ đấy thực hiện sứ mệnh bảo đảm tương lai rực rỡ hơn nữa!
TS. Nguyễn Công Phú (TBKTSG)
Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 đang chứng kiến những sự thay đổi, xã hội và cộng đồng người tiêu dùng có những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường, các chính sách an sinh cho người lao động, sự an toàn của thực phẩm.
Thử nhìn lại một cách đơn giản nhưng đủ nghĩa, việc quản trị và quản lý tác nghiệp là như thế nào, đóng vai trò ra sao trong sự thành bại của một doanh nghiệp.
Sơ đồ trên đây cho ta hình dung được là khâu “tác nghiệp” liên quan đến 90-95% trong chu trình tạo ra sản phẩm.
Từ đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1980, sự phân bố chức năng trong một doanh nghiệp thường là theo lối từ trên xuống “top down”.
Thứ nhất, ban giám đốc tổ chức, điều hành chu trình sản xuất để sản phẩm (hữu hình hay dịch vụ) được thực hiện đúng như mong muốn.
Thứ hai, quản trị/quản lý tác nghiệp chỉ giới hạn là thi hành đúng, ngày qua ngày, từng hay một số công đoạn tạo ra sản phẩm.
Ở các nền công nghiệp phát triển nhanh và mạnh, giai đoạn từ thập niên 1960-1980, đã đảo lộn sự vận hành tác nghiệp. Khi tư tưởng, tư duy nhắm đến “sự hài lòng của khách hàng” là thước đo chính, thì hệ quả chính của nó là quản lý chất lượng, chất lượng toàn diện... Mà muốn thực hiện điều này thì thông tin phải được đi từ dưới lên trên “bottom up”, chính những ai ở gần khách hàng nhất, trực tiếp với các nhà cung ứng nhất của cả hai khâu “đầu vào” và “đầu ra” thì mới nắm được thông tin hoàn hảo nhất để “liên tục làm tốt hơn nữa sản phẩm, dịch vụ”.
Thêm vào đó, sự phát triển cực kỳ nhanh của nền công nghiệp thông tin, vừa phục vụ rất hiệu quả mọi khâu quản trị, đặc biệt quản trị tác nghiệp, lại vừa làm cho con người lao động trực tiếp “lệ thuộc” vào “máy móc mà mình sử dụng” - Nói cách khác, tính chuyên nghiệp, tri thức ngày càng nâng cao, dây chuyền tác nghiệp càng phức tạp nên khoa học theo tư duy Taylor không còn ứng dụng được nữa.
Trong khoảng thời gian đó, sự cạnh tranh đã buộc cộng đồng doanh nghiệp đưa cách sản xuất “Just in time”, “zero stock” (giảm tối đa hàng tồn kho) vào cuộc càng làm tính quản trị, quản lý tác nghiệp trở thành vừa phức tạp, vừa là khâu quan trọng nhất cho sự tồn tại ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hai thập niên cuối của thế kỷ 20 là khoảng thời gian bùng nổ của số lượng doanh nghiệp được thành lập và tỷ lệ các doanh nghiệp phá sản cũng cao nhất. Ngay các tập đoàn, doanh nghiệp có kinh nghiệm lâu đời cũng tan biến trong vùng xoáy tác nghiệp không hữu hiệu.
Vì thế, mô hình quản trị vĩ mô/quản trị tác nghiệp của cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 có thể minh họa như hình trên.
Trong khi mô hình mới này là để đáp ứng các yêu cầu của thời đại, thì có nhiều ban tổng giám đốc, ban giám đốc điều hành không biết tạo dựng một nền quản trị/quản lý tác nghiệp thực sự có tính tự chủ, ủy quyền cao. Ngược lại, còn có khuynh hướng “làm thay”. Và cũng nên lưu ý rằng con người “cầm trịch” quản trị tác nghiệp là thành viên quan trọng của ban tổng giám đốc
Nền quản trị, quản lý tác nghiệp, dĩ nhiên, là hệ quả của chiến lược kinh doanh của ban tổng giám đốc, cốt lõi nhất là chọn những sản phẩm/dịch vụ gì cho hiện tại, tương lai và với sách lược gì.
Các nhà lãnh đạo của những doanh nghiệp hàng đầu thế giới vẫn khẳng định “người nào việc nấy, đúng lúc, đúng nơi”. Đó là nguyên lý vẫn còn giá trị quản trị của nó. Và quản trị tác nghiệp chính là “bây giờ” và “nơi đây” cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, ban tổng giám đốc, nhờ đấy thực hiện sứ mệnh bảo đảm tương lai rực rỡ hơn nữa!
TS. Nguyễn Công Phú (TBKTSG)